Viết văn nghị luận về tác phẩm thơ lớp 11: Khám phá cấu tứ và hình ảnh qua dàn ý và bài văn mẫu xuất sắc
Viết văn nghị luận về tác phẩm thơ: Khám phá cấu tứ và hình ảnh với hướng dẫn chi tiết cùng 7 bài mẫu đặc sắc. Bài viết giúp học sinh tự học, mở rộng kiến thức và rèn luyện kỹ năng viết văn nghị luận về thơ một cách sâu sắc và chuyên nghiệp.

Để viết văn nghị luận về tác phẩm thơ ấn tượng, cần lựa chọn những bài thơ có cấu tứ độc đáo và hệ thống hình ảnh phong phú, được xây dựng dưới sự chi phối của tứ thơ. Dưới đây là TOP 7 bài mẫu viết về các tác phẩm như Tràng Giang, Con đường mùa đông, và Nhớ đồng, dành cho học sinh lớp 11. Tham khảo thêm nhiều bài văn hay tại chuyên mục Văn 11 - Kết nối tri thức.
Viết văn nghị luận về tác phẩm thơ
- Dàn ý nghị luận về một tác phẩm thơ
- Viết văn nghị luận về bài thơ Tràng giang
- Viết văn nghị luận về bài thơ Con đường mùa đông
- Viết văn nghị luận về bài thơ Nhớ đồng
- Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Áo trắng
Dàn ý nghị luận về một tác phẩm thơ
I. Mở bài:
– Giới thiệu sơ lược về tác giả: tên tuổi, bút danh, vị trí trong nền văn học, chủ đề sáng tác, phong cách sáng tác, những đóng góp của tác giả đối với phong trào văn học, giai đoạn văn học và nền văn học dân tộc.
– Giới thiệu tổng quát về bài thơ: hoàn cảnh xuất xứ, đại ý, nội dung chính của đoạn thơ/bài thơ. Dẫn vào đoạn thơ, bài thơ cần phân tích: trích lại bài thơ (nếu ngắn) còn khổ thơ thì phải ghi lại tất cả.
II. Thân bài:
– Khái quát về vị trí trích đoạn hoặc bố cục, mạch cảm xúc chủ đạo của khổ thơ, bài thơ.
– Giới thiệu vấn đề nghị luận và phương hướng nghị luận.
– Phân tích bài thơ/đoạn thơ: trích thơ rồi lần lượt phân tích những từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ, v.v…. trong từng câu thơ, giải mã đúng từ ngữ, hình ảnh đó để giúp người đọc cảm thấy được những cái hay, cái đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
Lưu ý: Nên phân tích từ nghệ thuật đến nội dung, khi phân tích phải dựa vào từ ngữ có trong bài thơ, hoàn cảnh ra đời, phong cách sáng tác của tác giả để tránh suy diễn miên man, không chính xác, cụ thể:
* Phân tích khổ thơ thứ nhất:
+ Nêu nội dung chính của khổ thơ thứ nhất:
(Trích thơ…)
+ Áp dụng các thủ pháp phân tích thơ để phân tích những hình ảnh, từ ngữ, biện pháp nghệ thuật tu từ, nhịp điệu, v.v. trong từng câu thơ; giải mã những từ ngữ, hình ảnh đó có ý nghĩa gì, nó hay, đặc sắc ở chỗ nào.
+ Liên hệ, so sánh với những bài thơ cùng chủ đề.
+ Chuyển sang khổ thứ hai.
* Phân tích khổ thơ thứ hai:
+ Cách làm bốn bước tương tự khổ thứ nhất.
+ Rồi cứ tiếp tục như thế đến hết bài.
(Lưu ý: đôi khi có thể phân tích hai khổ thơ cùng một lúc nếu hai khổ thơ cùng một ý nghĩa)
– Nhận xét đánh giá bài thơ:
+ Đánh giá về nội dung, tư tưởng của bài thơ. (Nét đặc sắc về nội dung của bài thơ là gì? Thành công/hạn chế?)
+ Đánh giá về nghệ thuật. (Thành công/hạn chế?)
+ Đánh giá về phong cách tác giả. (Qua bài thơ em thấy tác giả là người như thế nào; có thể nói thêm những đặc điểm về phong cách nghệ thuật và đóng góp của nhà thơ trên văn đàn lúc bấy giờ).
III. Kết bài:
+ Khẳng định lại toàn bộ giá trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
+ Liên hệ bản thân và cuộc sống (nếu có).
Viết văn nghị luận về bài thơ Tràng giang - Phân tích cấu tứ và hình ảnh đặc sắc
Bài làm mẫu 1
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sau mưa
Cùng đất nước mà nặng buồn sầu núi
Những câu thơ trên như gió lại cái hồn riêng của thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám. Dường như mỗi câu thơ là chất chứa bao nỗi sầu thiên thu vạn cổ, ẩn trong đó những tâm tình sâu nặng với quê hương đất nước. Huy Cận hay viết về thiên nhiên, vũ trụ về những khoảng thời gian buồn vắng hiu quạnh với sự kết hợp của chất cổ điển và hiện đại làm nên một vẻ đẹp riêng độc đáo. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ, cho hồn thơ Huy Cận. Bài thơ không chỉ mang nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên mênh mông hiu quạnh, mà còn thấm đượm cả nỗi sầu nhân thế và tấm lòng yêu nước thầm kín của thi sĩ.
Tràng giang được gợi cảm hứng từ một buổi chiều cuối thu nơi bờ nam bến Chèm, trước khung cảnh sống Hồng đang mùa nước lớn. Chàng thi sĩ chứng kiến những cánh bèo, cành củi đang trôi nổi giữa dòng nước mênh mông mà gợi ngay lên một tứ thơ. Bao trùm bài thơ dường như là một nỗi buồn mênh mang vô tận của thi sĩ khi đứng trước thiên nhiên, đất nước và cuộc đời. Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi ra chất cổ điển rất riêng của Huy Cận. Nhà thơ dùng một từ Hán – Việt để đặt nhan đề cho bài thơ của mình. Từ Hán Việt có tác dụng lớn nhất là gợi ra không khí cổ điển, trang trọng và phảng phất chất Đường thi. Không những vậy thay vì dùng “Trường giang” Huy Cận biến âm dùng Tràng giang, hai âm “ang” được đặt liên tiếp là âm mở vừa gợi được cái dài rộng của không gian vừa gợi được cái mênh mang, bát ngát man mác xúc cảm trong lòng độc giả. Bên cạnh đó “Tràng giang” còn có sức khái quát.
Nó không phải là một con sông cụ thể nào, không phải con sông của đời thường mà dường như là con sông của lịch sử, của văn học, của thi nhân và còn là con sông cuộc đời. Bước qua nhan đề, người đọc lại gặp ngay lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” như bao trọn cảm hứng của toàn bài thơ. Đó là không gian của trời rộng sông dài, là cảm xúc của bâng khuâng thương nhớ. Thế cho nên nếu toàn bài thơ là không gian rộng lớn là cảm xúc thoáng buồn thì cũng hoàn toàn là hợp lý.
Trong mạch cảm xúc như thế khổ một mở ra một không gian sông nước rộng lớn mênh mang:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Hình ảnh đầu tiên của bài thơ là hình ảnh những con sóng khẽ gợn, nối tiếp nhau đến vô cùng, vô tận, tầng tầng lớp lớp không dứt. Câu thơ sử dụng bút pháp “lấy động tả tĩnh” của văn học trung đại. Chuyển động của con sóng chỉ là “gợn” rất khẽ, rất nhỏ dường như tan đi trong cái không gian mênh mông của sông của trời. Con sóng đi cùng với tràng giang đã không còn là con sóng thực mà dường như mang một lớp nghĩa ẩn dụ mới. Nó gợi đến nỗi buồn trong tâm hồn con người trước sự dài rộng của không gian. Cùng với hình ảnh sóng nước là hình ảnh con thuyền đang lênh đênh xuôi theo dòng. Hình ảnh này như gợi đến kiếp sống nổi lênh của một lớp người bé nhỏ trong xã hội. Đây cũng là một thi liệu quen thuộc gần như đã trở thành chuẩn mực trong văn học. Trong thơ Đường, ta đã từng bắt gặp hình ảnh con thuyền và dòng sông đầy ám ảnh, trĩu nặng cái tình của người đưa tiễn:
Cô phàm viễn cảnh bích không tận
Duy kiến Trường giang thiên tế lưu
(Lí Bạch)
Khác chăng là con thuyền của Huy Cận không còn là con thuyền mang vẻ đẹp kĩ vĩ nữa mà nó thoáng vẻ mênh mang gợi cái chia lìa xa cách:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Con thuyền thì nhỏ bé, hữu hạn mà dòng sông thì rộng lớn vô hạn. Cái hữu hạn đối với cái vô hạn dường như càng tô đậm cảm giác nhỏ bé cô đơn. Hơn thế nữa thuyền và nước vốn là những sự vật gắn bó nước chảy thuyền trôi vậy mà ở đây lại bị chia tách với hai chuyển động ngược chiều về hai phía khác nhau. Cặp từ láy “điệp điệp”, “song song” ở hai câu thơ trước đã tô đậm ấn tượng về nỗi buồn mênh mang đang lan trên mặt nước, lại càng có tác dụng hơn khi tạo nên cấu trúc câu song ứng và rồi đến câu thơ thứ ba thì hai vế đối song ứng được dồn vào một câu thơ. “Thuyền về” đối với “nước lại” như nhấn vào cảm giác chia lìa đôi ngả. Và phải chăng vì sự chia lìa đó mà dòng sông tràng giang càng thêm u buồn lặng lẽ?
Nếu ba câu thơ đầu mở ra một không gian Đường thi mang đậm chất cổ điển thì câu thơ thứ tư lại mang dáng vẻ của thơ ca hiện đại:
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Trong thơ xưa, nếu muốn gợi đến kiếp người nhỏ bé lênh đênh, các nhà thơ thường dùng hình ảnh hoa trôi, bèo dạt. Huy Cận lại chọn hình ảnh một cành củi khô đang trôi dạt giữa dòng nước mênh mang để thể hiện điều đó. Biện pháp đảo ngữ cùng cách ngắt nhịp 1/3/3 càng nhấn mạnh vào cành củi khô, nhỏ bé, khô héo, cạn kiệt sức sống. Ý thơ này có lẽ vừa được khơi nguồn từ hình ảnh thực khi nhà thơ đứng ở bờ nam bến Chèm giữa mùa nước lớn, những cành cây khô trôi từ thượng nguồn về bến sông. Nhưng có lẽ nó còn mang một lớp nghĩa ẩn dụ khác. Nó gợi về một lớp người lúc bấy giờ trong xã hội. Ý thơ này càng được làm rõ hơn với từ “lạc” dường như là sự trôi nổi vô định, mất phương hướng. Một cành củi khô héo không sức sống mà vẫn bị giằng xé, chao đảo giữa dòng nước mênh mang của cuộc đời. Nó gợi đến hình ảnh một lớp người như nhà thơ trong xã hội xưa, những trí thức tiểu tư sản có ý thức về cái tôi nhưng lại bế tắc, mất phương hướng trước hiện thực xã hội bấy giờ. Hình ảnh này thể hiện sức sáng tạo của Huy Cận khi ông đã mang vào thơ một hình ảnh rất đời, rất thực, tạo ra một hình ảnh mới giàu sức gợi, đậm chất hiện đại, phá vỡ tính ước lệ và cổ xưa của thơ Đường. Như vậy, khổ thơ thứ nhất đã gợi lên không gian mênh mông rộng dài của sông nước, gợi thân phận nhỏ bé mất phương hướng giữa cuộc đời của một lớp người, gợi được nét buồn phảng phất mênh mang. Đồng thời, khổ thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển lại vừa hòa quyện nét hiện đại mới mẻ, tạo nên một bức tranh thiên nhiên giàu sức gợi.
Nếu khổ thơ thứ nhất là cái nhìn cận cảnh của nhà thơ trước dòng sông mênh mông để thấy từng gợn sóng, từng cành củi khô trôi dạt, thì khổ hai là cái nhìn bao quát toàn cảnh sông dài, trời rộng đến bâng khuâng:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Hai câu thơ đầu đã vẽ lên khung cảnh buổi chiều trên sông nước. Cảnh thật vắng vẻ, tĩnh lặng. Nét bút chấm phá của Huy Cận đã phác họa nên một bức tranh sông nước mênh mang đến rợn ngợp. Nhà thơ điểm vào khoảng không gian rộng lớn ấy một vài chấm nhỏ để tạo nên sự tương phản gay gắt giữa vũ trụ bao la và những sự vật thật nhỏ bé:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Biện pháp đảo ngữ đẩy từ “lơ thơ” lên đầu đã nhấn mạnh vào cảm giác thưa thớt, nhỏ bé của những cồn cát. Cùng với đó là hai từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đứng ở đầu và cuối câu thơ như gợi ra cái hiu quạnh, vắng vẻ, lẻ loi, cô đơn của cảnh vật. Những cồn cát nhỏ ven sông trong cái gió đìu hiu của lau lách, hoang vu như làm dấy lên trong lòng người nỗi cô đơn, buồn vắng. Không gian tĩnh lặng ấy càng được nhấn:
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Chợ trong tâm thức người Việt gắn với tươi vui, bởi đó là nơi gặp gỡ, giao lưu của người dân xưa. Thế nên chợ vãn, chợ tàn sẽ gợi nên sự vắng vẻ, gợi nỗi buồn. Ở đây, nhà thơ của cảnh sắc quê hương tiếp tục dùng biện pháp lấy động để tả tĩnh. Âm thanh vang lên nhưng lại chỉ là âm thanh từ xa vọng lại và cũng là âm thanh của chợ vãn nên dường như có như không, gợi cái tĩnh lặng hơn cái ồn ào, tấp nập. Từ “đâu” đứng ở đầu câu thơ tạo ra nhiều cách hiểu. Nó có thể là từ để hỏi như đâu đó tiếng chợ chiều vọng đến, cũng lại có thể là từ phủ định, làm gì có, đâu có đâu tiếng chợ chiều. Đến cả tiếng chợ vãn, chợ tan mà cũng như có như không thì bức tranh đó phải tĩnh lặng, buồn vắng tới mức nào. Một lần nữa bút pháp cổ điển lại giúp tác giả gợi được cái vô hạn của không gian và sự nhỏ bé của sự vật, cái tĩnh lặng của cảnh sắc với những âm thanh bé nhỏ của cuộc sống. Từ sự đối lập tương phản đó, bức tranh buổi chiều, cảnh ngày tàn hiện lên:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Câu thơ đầu như một sự mở rộng về không gian. Huy Cận đã có sự quan sát tinh tế và kĩ càng để nhận thấy nắng càng xuống trời càng lên cao. Không gian như được mở ra hai chiều rộng dài đến bát ngát. Thêm nữa, chuyển động trái chiều mang lại cảm giác mạnh cho người đọc về một không gian như được mở dần ra. Nhưng chưa dừng lại ở đó, “người dệt nên những vần thơ hàm súc, triết lí” đã có cách dùng từ ngữ thật sáng tạo. Nếu thông thường chúng ta dùng từ “chót vót” để gợi độ cao thì ở đây ông dùng từ này để chỉ độ sâu. Sự bất thường này lại mang đến một hiệu quả lớn. Bạn đọc như nhận ra một chiều khác nữa của không gian sông nước đó là chiều sâu, không gian được đẩy tới tận cùng tạo ra một chiều kích mới. Và phải sâu đến độ nào để thi nhân phải thốt lên “sâu chót vót”. Cụm từ sáng tạo này càng khiến cho khung cảnh thêm rợn ngợp, cái lẻ loi chống chếnh của con người càng được tô đậm thêm. Ở câu thơ sau, một lần nữa các chiều kích của không gian được nhắc lại trong cái vô hạn của đất trời. Và không gian càng mở ra bao nhiêu thì cảm giác cô liêu càng được nhấn mạnh bấy nhiêu. Cái điểm dừng bé xíu của bến cô liêu như lạc giữa đất trời, như lẻ loi đến cô độc. Như vậy, khổ thơ thứ hai trong cái nhìn bao quát toàn cảnh vật của thi nhân đã mở rộng không gian ra mọi chiều kích, tới không giới hạn để rồi nhìn lại con người càng thêm bé nhỏ, trống vắng và cô quạnh.
Hướng điểm nhìn vào hai bên bờ sông, chàng thi sĩ phát hiện ra hàng loạt những hình ảnh khác nhỏ bé của bến sông và dường như các hình ảnh này càng giúp thi nhân tô đậm sự buồn vắng, cô quạnh, chia lìa.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh bèo dạt rất quen thuộc và xuất hiện nhiều lần trong thơ ca truyền thống. Nhưng ở đây cánh bèo dạt vẫn gợi lên những cảm nhận mới. Hình ảnh này diễn tả một cách thấm thía sự hợp tan, chia lìa của những kiếp người chứ không chỉ gợi sự nhỏ bé mong manh, trôi dạt như trong thơ ca truyền thống. Bèo dạt hàng nối hàng như bao kiếp người lênh đênh trên dòng nhân thế. Cảm nhận về sự lênh đênh, trôi dạt vô định của một kiếp người càng khiến nỗi sầu tăng lên gấp bội trong lòng thi nhân. Ở khổ thơ này, Huy Cận còn nhắc đến những chuyến đò và những cây cầu. Đây là những hình ảnh gợi sự kết nối, giao lưu. Vậy mà tác giả nhắc tới những sự vật đó, không phải là để khẳng định cái có mà là để miêu tả cái không có, không tồn tại trong bức tranh sông nước Tràng giang. Không cầu, không đò hay chính là không có sự kết nối của con người, hay chính là sự cô đơn, hoang vắng đến tột cùng? Trong sự vắng lặng đó, không gian vẫn tiếp tục được trải ra đến vô cùng của bờ xanh với bãi vàng. Bức tranh xuất hiện những gam màu vốn không đen tối nhưng lại chẳng thể làm cảnh sắc thêm tươi sáng, thêm sức sống. Dường như hai bờ sông là một thế giới tách biệt với những bờ bãi kia, những cánh bèo cũng vì thế mà chẳng biết trôi dạt về đâu. Trước một cảnh sắc như thế, lòng người sao có thể vui tươi, háo hức. Hay cũng vì lòng người nhiều tâm tư trĩu nặng mà cái nhìn với cảnh cũng thấm đẫm ưu tư?
Từ sự dẫn đường đó, khổ thơ thứ tư bộc lộ rõ hơn tâm tình tác giả:
Lớp lớp mây cao đùn núi bác
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Hai câu đầu của khổ thơ mang đậm ý vị của Đường thi, nhuốm màu sắc cổ điển. Đó là cảnh buổi chiều, cảnh hoàng hôn với cánh chim và chòm mây, những thi liệu vô cùng quen thuộc trong thơ ca:
Chim bay về núi tối rồi (ca dao)
Chim hôm thoi thóp về rừng (Nguyễn Du)
Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn (Lí Bạch)
Ở đây, cánh chim và chòm mây một lần nữa thực hiện đúng chức năng của mình, gợi ra buổi chiều nơi sông nước mênh mang. Cảnh sắc có cái hùng vĩ lên thơ với những lớp mây cao như những ngọn núi lấp lánh ánh bạc phía chân trời, với cánh chim chiều nghiêng bóng vội vã tìm về tổ ấm. Trong cái nghiêng của cánh chim dường như chở nặng cả bầu trời, bóng chiều rơi dần xuống. Câu thơ vừa quen thuộc vừa mới mẻ, cho thấy cái tinh tế riêng của thi sĩ. Cánh chim nhỏ bé nghiêng bóng cũng một lần nữa nhấn mạnh sự tương phản giữa những thực thể nhỏ bé tồn tại trong bức tranh với không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ. Có lẽ sự tương phản ấy đã làm dấy lên trong lòng mỗi người đọc cảm giác tịch mịch, u bóng, gợi nỗi buồn ẩn sâu nào đó trong mỗi chúng ta.
Hai câu thơ sau mượn ý thơ của Thôi Hiệu, một nhà thơ nổi tiếng đời Đường trong bài Hoàng hạc lâu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Nếu Thôi Hiệu cần một màu khói để gợi nỗi nhớ nhà, nếu màu khói trong ý thơ xưa gợi không khí sum họp khiến người tha phương khát khao tình quê, thì nay trong thơ Huy Cận, không cần màu khói ấy, nỗi nhớ nhà, tình yêu quê hương đất nước vẫn thường trực và trào sôi. Có lẽ tình yêu thầm kín mà da diết dành cho quê hương đất nước ẩn chứa trong tâm chàng thi sĩ đa sầu ấy đã làm nên một tứ thơ hay và xúc động đến vậy. Bài thơ khép lại với nỗi nhớ quê, với tình yêu nước sâu lắng đó, và giá trị của tác phẩm có lẽ chính là ở đây chăng?
Tràng giang là một thi phẩm đặc sắc của Huy Cận nói riêng và phong trào thơ mới nói chung. Nó không chỉ tiêu biểu cho phong cách thơ, hồn thơ Huy Cận mà dường như nó còn thể hiện tâm tư của một lớp người lúc bấy giờ. Những con người nhỏ bé, bế tắc, mất phương hướng trước dòng sông cuộc đời, nhưng chưa bao giờ tâm hồn lìa bỏ khỏi quê hương. Tình yêu quê hương đất nước vẫn chảy trong họ như một dòng sông mãnh liệt và bền vững để chống đỡ với những sóng gió của dòng sông cuộc đời. Vẻ đẹp của “Tràng giang” có lẽ còn ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và chất hiện đại, làm nên một thi phẩm độc đáo.
Bài làm mẫu 2
Nhắc tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não” (Hoài Thanh). Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi sầu nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa chất cổ điển và hiện đại, ông đã gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó phải kể đến Tràng giang. Bài thơ in trong tập “Lửa thiêng” (1940) rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận.
Vào một buổi chiều thu năm 1939, khi nhà thơ đứng trước bãi Chèm – phía Nam dòng sông, trước cảnh sóng nước mênh mông, đã không kìm nén nổi cảm xúc buồn bã, cô đơn và nhớ nhà da diết nên sáng tác bài thơ Tràng giang. “Tràng giang” là một từ Hán Việt đầy trang trọng, cổ kính, chỉ một con sông dài. Nhưng nhà thơ không dùng “trường giang” (có cùng nghĩa) để thay thế, bởi cách điệp vần “ang” giúp nhan đề vừa gợi âm hưởng ngân vang, vừa gợi nên cảm giác một dòng sông không những dài mà còn rộng. Thêm lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài càng làm rõ hơn sắc thái cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Đó là nỗi buồn của con người trước một không gian mênh mông, rộng lớn có thể bao trùm cả vũ trụ.
Từ nhan đề và câu thơ đề từ của bài thơ, khổ thơ thứ nhất đã mở ra một không gian sông nước rộng lớn. Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mang.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Dường như, dòng sông “tràng giang” đã dài nay lại như trải dài ra hơn với từng đợt sóng “điệp điệp” cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt. Những đợt sóng ấy như trải dài đến vô tận càng tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao la của sông nước. Và để rồi, trên cái nền sông nước mênh mông ấy, hình ảnh con thuyền hiện lên thật nhỏ nhoi, cứ thế “xuôi mái nước song song”. Hình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, lẻ loi. Đặc biệt, khổ thơ thứ nhất còn để lại ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc bởi hai câu thơ cuối của khổ thơ.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Từ xưa cho đến nay, thuyền và nước là hai hình ảnh luôn đi liền với nhau, ấy vậy mà ở đây dường như thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi. Có lẽ bởi thế mà cảnh vật ấy càng khiến cho lòng “sầu trăm ngả”. Đặc biệt, giữa cảnh sông nước mênh mông ấy, hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu bởi trăm dòng mênh mông vô định. Như vậy, trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định. Đồng thời, khổ thơ cũng gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.
Nếu trong khổ thơ mở đầu của bài thơ, tác giả vẽ nên không gian sông nước mênh mông thì trong khổ thơ thứ hai, tác giả lại mở ra không gian nơi cồn nhỏ. Hai câu thơ mở đầu khổ thơ thứ hai đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm, tác giả đã vẽ nên một bức tranh nơi cồn nhỏ vừa thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo vừa gợi nên một nỗi buồn mênh mang. Thêm vào đó, sự hoang vắng, tĩnh mịch của không gian như càng được tô đậm thêm qua câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Có thể nói, đây là một câu thơ có nhiều cách hiểu, “đâu” là đâu có, là phủ nhận âm thanh của tiếng chợ chiều hay là đâu đó, gợi lên âm thanh yếu ớt của tiếng chợ.
Nhưng có lẽ dẫu hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người. Nếu hai câu thơ đầu khổ hai gợi lên không gian cồn nhỏ vắng vẻ, hiu quạnh thì dường như trong câu ba và câu bốn, không gian ấy như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Trong hai câu thơ, tác giả dùng “sâu chót vót” thay vì “cao chót vót” bởi lẽ chữ “sâu” không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, nó không chỉ gợi lên một khoảng không gian rộng lớn, thẳm thẳm mà còn gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của lòng người trước cái mênh mông, hoang vắng của cảnh vật. Như vậy, trong hai khổ thơ đầu của bài thơ, nỗi buồn của nhà thơ như bao phủ lên mọi cảnh vật, lên không gian rộng lớn và mênh mông. Và để rồi, trong khổ thơ thứ ba của bài thơ, tác giả lại trở về với không gian sông nước với khung cảnh mênh mang, đìu hiu, thiếu vắng đi sự sống của con người.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” một lần nữa gợi lên trong người đọc hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu. Thêm vào đó, khổ thơ với việc sử dụng nghệ thuật phủ định lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh sự hiu quạnh, thiếu sự sống của cảnh vật. Lẽ thường, chúng ta vẫn thường thấy rằng, thuyền và cầu là những phương tiện, những hình ảnh thể hiện sự giao lưu, kết nối giữa con người với con người, giữa miền đất này với miền đất khác nhưng ở đây “không một chuyến đò”, “không một cây cầu”.
Dường như, ở nơi đây chẳng có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau. Có lẽ bởi thế mà hai bờ của dòng sông cứ thể chạy dài, chạy dài mãi mà chẳng bao giờ gặp nhau, chỉ còn lại ở nơi đây những bờ xanh, những bãi vàng nối tiếp nhau – một bức tranh đẹp nhưng tĩnh lặng và thật buồn.
Bài làm mẫu 3
Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ của vạn lí sầu. Trước cách mạng, hồn thơ ông mang nỗi sầu bi của thời đại. Tác phẩm Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho nỗi buồn miên man của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời đại. Ẩn sau nỗi buồn ấy còn là lời tâm sự, lòng yêu nước kín đáo.
Nhan đề của bài thơ gồm hai vần “ang” – đây là âm mở, gợi nên sự mênh mông, rộng lớn. Không gian dòng sông hiện ra không chỉ là một con sông bình thường mà nó còn là con sông lớn mang tầm vóc vũ trụ. Không chỉ vậy, việc sử dụng từ Hán Việt còn khiến cho bài thơ mang âm hưởng cổ kính, mang tính khái quát.
Không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện, nó thường là một gợi dẫn có ý nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi bắt đầu bài thơ Tràng giang là lời đề từ do chính Huy Cận sáng tác:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Câu thơ đề từ gợi ra không gian vũ trụ rộng lớn, bát ngát, mở ra cả chiều rộng và chiều cao. Trước không gian ấy, con người cảm thấy bơ vơ, lạc lòng, đây cũng là cảm xúc của biết bao thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi mạch cảm xúc chung của bài thơ.
Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ thấm đượm nỗi buồn:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Những con sóng lăn tăn gợn theo chiều gió thổi, không gian ấy hoàn toàn yên tĩnh. Nhưng ở đây không chỉ có thiên nhiên mà ẩn khuất còn có tâm trạng của con người “buồn điệp điệp”, nỗi buồn không còn vô hình mà hữu hình qua từ láy “điệp điệp”. Nỗi buồn ấy tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, nó tuy nhẹ nhàng mà thấm đẫm, mà lan tỏa trong lòng con người. Nổi bật trong không gian đó là hình ảnh con thuyền xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt. Giữa dòng tràng giang, con thuyền trở nên bé nhỏ, đơn côi tựa như chính hình ảnh con người. Từ “xuôi mái” cho thấy trạng thái buông xuôi, phó mặc cho dòng nước xô đẩy. Đó phải chăng cũng chính là tâm trạng của những con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thuyền cứ trôi, cứ về để lại nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại – nước. Và hiển hiện trong hiện thực đó chính là những cành củi khô đơn độc, lẻ loi. Đảo ngữ “củi” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, không chỉ vậy đó còn là cảnh củi khô không còn sức sống lạc trôi giữa dòng đời vô định. Hình ảnh “củi khô” ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa sự mênh mông của dòng đời. Đồng thời còn ẩn dụ cho cái tôi lạc loài, bơ vơ trong Thơ mới.
Huy Cận di chuyển điểm nhìn về gần hơn với những bãi, những cồn ở ngay trước mắt mình. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” là một hình ảnh rất thực ở bãi giữa sông Hồng, kết hợp với hai từ láy “lơ thơ” “đìu hiu” gợi nên sự thưa thớt, vắng vẻ, hiu quạnh. Trong không gian ấy, tác giả cố gắng đi tìm hơi ấm cuộc sống, là tiếng chợ xa, nhưng “đâu” có thể tìm thấy được, không gian là sự tĩnh lặng đến tuyệt đối. Nỗi buồn càng được tô đậm hơn nữa khi không gian được mở rộng đến vô cùng, nắng xuống chiều lên, sông dài – trời rộng, kết hợp với từ “sâu chót vót” đã mở rộng không gian ra cả ba phía: rộng, cao, sâu. Khắc họa nỗi cô đơn, sự nhỏ bé đến cực điểm của con người trước không gian vũ trụ.
Đôi mắt Huy Cận lại tìm kiếm, lại hướng ra vô cùng và thu lại chỉ có:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Những cánh bèo lênh đênh, vô định nối tiếp nhau chảy trôi, sự chảy trôi không mục đích, không phương hướng, cũng như những kiếp người nhỏ bé, đơn độc lúc bấy giờ. Không gian sông nước mênh mông không có lấy một chuyến đò qua sông. Đò ấy không đơn thuần là phương tiện trung chuyển con người mà nó còn là phương tiện kết nối tình cảm. Nhưng tất cả đã bị phủ định một cách tuyệt đối: không một, không cầu, không còn một chút tình đời, tình người nào còn tồn tại ở đây nữa.
Khổ thơ cuối cùng vẽ ra bức tranh không gian nhiều tầng bậc, ông hướng mắt lên cao: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Bầu trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ, tráng lệ hơn. Động từ “đùn” cho thấy những đám mây ùn ùn kéo về, dựng lên những dãy núi tráng lệ. Và giữa lưng chừng trời là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, cảm tưởng như nó đã bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch, lặng lẽ, nỗi nhớ quê hương trong ông bỗng da diết, cồn cào:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Câu thơ làm ta bất giác nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Cũng đều là nỗi bi ai, là nỗi nhớ quê khắc khoải, nhưng Huy Cận đã có cách thể hiện thật mới, thật lạ. Lòng quê “dợn dợn” tức cứ tăng, cứ mạnh mãi lên, dường như sóng lòng đang trải ra cùng sóng nước. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, dai dẳng. Đây cũng là biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước.
Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời, bài thơ cũng thể hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng.
Viết văn nghị luận về bài thơ Con đường mùa đông - Phân tích hình ảnh và cảm xúc
Bài làm mẫu 1
Khi nhắc đến Puskin, nhà văn N.Gogol đã ưu ái gọi ông là “Nhà thơ dân tộc”. Đọc những sáng tác của Puskin, ta không chỉ thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ, cảnh sắc thiên nhiên Nga mà trên hết còn cảm nhận được “tinh thần Nga”, “con người Nga trong sự phát triển của nó”. Bài thơ “Con đường mùa đông” là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của Puskin, thể hiện rõ tài năng của “Mặt trời thi ca Nga”.
Puskin (1799 – 1837) sinh ra và lớn lên tại thành phố Moscow trong một gia đình có dòng dõi quý tộc. Tài năng văn học của ông đã bộc lộ từ khi ông còn là một thiếu niên. Sống trong thế kỉ 19 – “Thế kỉ vàng” của văn học Nga nhưng cũng là thế kỉ bạo tàn của lịch sử bởi các cuộc chiến tranh diễn ra liên tiếp, Puskin đã dùng ngòi bút của mình để thực hiện những lý tưởng cao cả, chống lại sự bạo ngược của Nga Hoàng và bênh vực nhân dân Nga. Vào tháng 10 năm 1826, sau khi Puskin được bãi lệnh đi đày, ông đã trở về Pê – téc – bua rồi hay tin Khởi nghĩa tháng Chạp thất bại. Bài thơ “Con đường mùa đông” đã ra đời trong hoàn cảnh đó, cho thấy tâm trạng đau buồn, cô đơn vì thời thế của nhà thơ. Cả bài thơ có bảy khổ thơ với kết cấu vòng tròn đặc biệt, cho thấy “Nỗi buồn sáng trong” và khát vọng tự do mãnh liệt.
Ba khổ thơ đầu là nỗi buồn được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp nhưng nhuốm màu cô đơn. Hình ảnh cánh đồng, khu rừng được bao phủ trong bạt ngàn tuyết trắng của xứ sở bạch dương hiện lên thật huyền ảo:
Xuyên qua sương mù gợn sóng
Mặt trăng nhô ra
Trăng buồn bã dội ánh sáng
Lên cánh đồng u buồn
Thời gian là đêm khuya mùa đông tĩnh mịch, không gian là cánh đồng bao la trải dài đến vô tận. Làn sương mờ dày đặc bao trùm lên tất cả. Động từ “gợn” cho thấy sự chuyển động nhẹ nhàng của màn sương. Động từ “Xuyên” được đảo lên đầu câu kết hợp với động từ “nhô” ở câu thơ thứ hai diễn tả sự xuất hiện khá bất ngờ của vầng trăng. Trăng vàng xé tan lớp sương đêm nhưng lại “dội” xuống những ánh vàng tẻ nhạt. Từ láy “buồn bã” gợi liên tưởng đến những tia sáng hiu hắt, yếu ớt. Nguồn sáng bàng bạc ấy đọng lại trên cánh đồng u buồn. Khung cảnh nên thơ, trữ tình nhưng phảng phất nét ảm đạm. Bức tranh thiên nhiên Nga được tác giả cảm nhận bằng rất nhiều giác quan và bằng cả tâm hồn tinh tế. Esenin – nhà thơ của làng quê Nga cũng đã đem những vạt rừng, ánh trăng Nga vào trong sáng tác:
Ánh sáng trăng to lớn
Soi thẳng mái nhà ta
Những cây bạch dương đứng
Như những cây nến to
Vầng trăng của Esenin mang đến nguồn sáng lớn lao “Soi thẳng mái nhà”, những cây bạch dương cũng tráng lệ và lung linh tựa “những cây nến to”. Nếu thiên nhiên của Esenin rực rỡ sắc màu thì thiên nhiên của Puskin lại hết sức tinh khôi, tự nhiên và chân thực.
Nói như Ostrovsky thì những câu thơ của Puskin “giản dị” và “trơn tru” quá nhưng “không biết rằng ông đã bỏ biết bao công sức cho câu thơ được giản dị và trơn tru”. Điều này được thể hiện rất rõ trong bài thơ “Con đường mùa đông”. Chỉ là những thanh âm quen thuộc như tiếng bánh xe, tiếng lục lạc và tiếng hát của con người nhưng bỗng có sức cuốn hút lạ thường
Trên đường mùa đông, buồn tẻ
Xe tam mã vun vút lao đi
Lục lạc đơn điệu
Mệt mỏi rung lên.
Bài ca của người xà ích
Có gì phảng phất thân yêu
Như niềm vui mừng khôn xiết
Như nỗi buồn nặng đìu hiu.
Giữa khung cảnh im lìm đủ làm tê tái cõi lòng con người, chiếc xe tam mã đang lăn bánh không ngừng nghỉ. “Vun vút” không chỉ diễn tả tốc độ rất nhanh của cỗ xe mà còn là sự trôi chảy không ngừng, lạnh lùng của thời gian. Tiếng lục lạc rung lên đơn điệu, tẻ ngắt, chứa đầy sự mệt mỏi. Nhà thơ đã lấy động để tả tĩnh, lấy âm thanh để cực tả cái yên ắng. Bài ca của người xà ích vang lên đầy “phảng phất thân yêu” như một sự cứu cánh cho tâm hồn. Ta nghe trong bài hát ấy lao xao những niềm vui khôn tả và cả những nỗi buồn nặng trĩu. Mỗi âm thanh xuất hiện vừa nhấn mạnh nỗi buồn, vừa cho thấy hướng vận động của nhân vật trữ tình để vượt qua những khó khăn trên con đường của chính mình. Nỗi lòng của Puskin hòa quyện giữa nỗi buồn thời thế với sự cô đơn của thân phận. Trong những ngày bị giam ở ngục tù, ông đã gửi gắm nỗi niềm ấy vào hình ảnh chú đại bàng:
Tôi ngồi sau chấn song ngục lạnh
Chú đại bàng non trẻ trong lồng
Bên cửa sổ anh bạn buồn chớp cánh
Rỉa miếng mồi thịt máu đỏ loang
Khi đã thoát khỏi cảnh ngục tù, tưởng như cánh cửa tự do đã mở ra với Puskin. Nhưng là một con người nặng lòng với đất nước, thời đại, Puskin vô cùng đau buồn khi khỏi nghĩa tháng Chạp thất bại. Người thanh niên trẻ cảm thấy lạc lõng, bơ vơ trước tình cảnh đất nước. Khổ thơ thứ tư được coi là khổ bản lề, chuyển tiếp giữa hai phần đối xứng của bài thơ, cho thấy sự thấm thía của con người trước cái trôi chảy của thời gian:
Không một mái lều, ánh lửa
Tuyết trắng và rừng bao la...
Chỉ những cột dài cây số
Bên đường sừng sững chào ta
Từ phủ định “Không” đặt ở đầu câu thơ lại một lần nữa nhấn mạnh vào sự đìu hiu, hoang vu. Màn đêm hun hút không biết đâu là điểm dừng, chẳng có lấy một dấu hiệu của sự sống con người. Thiên nhiên Nga hiện lên qua hình ảnh tuyết trắng và những cánh rừng sâu bạt ngàn. Không gian càng ngày càng được mở rộng. Tất cả mang đến một ấn tượng về một đất nước rộng lớn và hùng vĩ. Hình ảnh “những cột dài cây số” là biểu tượng cho những cột mốc trong cuộc đời. Chúng ngược chiều với sự vận động tiến lên của con người, đánh dấu những điều mà ta đã trải qua. Những cột cây số lạnh lùng đến tàn nhẫn càng khiến nhân vật trữ tình trở nên lẻ loi.
Từ không gian nỗi buồn trong tâm tưởng, nhà thơ đã thoát ra để tìm thấy điểm tựa tinh thần trong ba khổ thơ cuối:
Ôi buồn đau, ôi cô lẻ...
Trở về với em ngày mai
Nhi-na, bên lò lửa đỏ
Ngắm em, ngắm mãi không thôi
Kim đồng hồ kêu tích tắc
Và xua lũ người tẻ ngắt
Để ta bên nhau trong đêm.
Từ “buồn” được lặp lại nhiều lần trong bài thơ như một điệp khúc của bản nhạc du dương. Nỗi buồn mênh mang và sâu thăm thẳm ấy tràn khắp không gian và trào lên không ngừng trong lồng ngực nhân vật trữ tình. Chàng trai phải thốt lên: “Ôi buồn đau, ôi cô lẻ...”. Thán từ “Ôi” kết hợp cùng những từ “buồn đau”, “cô lẻ” thể hiện dòng cảm xúc mãnh liệt. Tuy nhiên, cái đẹp của thơ Puskin nằm ở chỗ dẫu con người buồn thương nhưng không bao giờ bi lụy. Những vần thơ đột ngột bừng sáng khi nhắc đến “ngày mai” và hình ảnh “Nhi – na”. Thực tại hôm nay dẫu cô đơn và khắc khổ nhưng nhân vật trữ tình vẫn dạt dào khát khao hạnh phúc, niềm tin hướng đến tương lai. Nhi – na có thể là bất cứ cô gái Nga thân thương nào, không nhất thiết là một con người cụ thể. Hình ảnh “lò lửa đỏ” gợi liên tưởng đến một mái ấm bình dị, đơn sơ. Câu thơ cuối của khổ thơ thứ năm được ngắt nhịp 2/4 với hai từ “Ngắm” được lặp lại cho thấy niềm hạnh phúc xốn xang dâng lên trong tâm hồn. Kim đồng hồ vẫn kêu, dòng thời gian vẫn không ngừng trôi chảy nhưng con người không sợ hãi trước bước đi của thời gian mà kiên cường bước tới, để yêu thương và đoàn tụ. Câu thơ “Để ta bên nhau trong đêm” cho thấy khát khao về hòa bình, hạnh phúc đã trở thành động lực để nhân vật trữ tình bước tiếp, vượt qua những gian truân.
Sầu lắm, Nhi-na: đường xa vắng
Ngủ quên bác xà ích lặng im
Nhạc ngựa đều đều buông xa thẳm
Sương mờ che lấp ánh trăng nghiêng
Nhân vật trữ tình như đang tâm sự với cô gái Nhi – na về nỗi lòng của mình: “đường xa vắng. Hình ảnh chiếc xe ngựa cùng bác xà ích lặp lại, tạo nên kết cấu vòng tròn tương ứng cho bài thơ. Bác xà ích đã lặng im, tiếng nhạc ngựa trở nên đều đều, vầng trăng khuất sau màn sương. Nỗi buồn đã được lắng lại, hóa thành niềm yêu cuộc sống và niềm tin vào tương lai tươi sáng. Puskin đã diễn tả những cung bậc cảm xúc cùng những khát khao cao đẹp nhất của con người bằng một hình thức giản dị. Thiên nhiên dù là thảo nguyên hay bão tuyết, tất cả đều nhuốm màu tâm trạng. Nỗi buồn trong thơ ông thực sự là “Nỗi buồn trong sáng”, rất hiện thực mà rất đỗi nên thơ.
“Con đường mùa đông” là một sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của Puskin. Nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn con người Nga một cách trọn vẹn, đúng như Bêlinxki đã nhận xét: “Hơi thơ của Puskin vô cùng trong sáng, nó tràn ngập hiện thực. Nó không rắc phấn trắng, phấn hồng lên cuộc sống mà mô tả hiện thực như nó vốn có. Thơ của Puskin luôn có bầu trời và bầu trời đó luôn hòa quyện với mặt đất”.
Bài làm mẫu 2
“Xuyên những làn sương gợn sóng
Mảnh trăng mờ do chiếu qua,
Buồn rải ánh vàng lại láng
Lên cánh đồng buồn giăng xa."
Tác phẩm Con đường mùa đông được tác giả Puskin sáng tác vào năm 1826. Thời điểm này vào khoảng tháng 12, lúc này các cuộc nổi dậy được phát triển mạnh mẽ. Bị đi đày, nhà thơ vô cùng sợ hãi và lo lắng không hiểu chuyện gì đang xảy ra trước mắt. Trong giai đoạn đó, con đường sự nghiệp của Puskin chứa đầy những động cơ sâu sắc cùng tình cảm rất đáng lo ngại đối với những người đồng đội của mình. Các nhà viết tiểu sử cho rằng tác phẩm này được viết trong quá trình mà nhà thơ trên hành trình đi thẩm vấn ngài thống đốc Pskov. Chắc hẳn công việc này đối với nhà thơ mang rất nhiều điều sâu sắc và ý nghĩa hơn so với cái nhìn đầu tiên. Nó chứa biết bao triết lý và ẩn dụ.
"Con đường mùa đông" gồm có tất cả là bảy khổ thơ có mối quan hệ chặt chẽ về ý nghĩa. Khổ thơ đầu và khổ thơ cuối được liên kết với nhau bởi một chủ đề chung đó là buồn và chán. Khổ thơ đầu tác giả đã nhắc đến trăng (trăng soi đường) còn ở khổ thơ cuối là (mặt trăng mờ sương) qua đó đã tạo nên bố cục vành khuyên thật độc đáo và đặc sắc. Đoạn trích này là phần đầu của bài thơ, là sự bộc lộ - khung cảnh đêm mùa đông, một người anh hùng trữ tình - dường như nhân vật trữ tình trong tác phẩm chính là tác giả, một anh hùng xuất hiện trong kế hoạch thứ hai – là người đánh xe ngựa ca một bài hát một bài đượm buồn, thê lương.
Có thể thưởng thức hình ảnh con đường mùa đông theo đúng nghĩa đen của nó, hoặc ta có thể so sánh con đường mùa đông giống với cuộc đời của con người, với cuộc đời của một người anh hùng anh dũng, trữ tình. Con đường mùa đông hiện lên với một khung cảnh vắng vẻ, tẻ nhạt, đơn điệu, chỉ được đánh dấu bởi các đường kẻ sọc. Nhưng chính những chi tiết ấy lại là toàn bộ biểu tượng, nguồn cảm xúc của tác phẩm. Cuộc đời của người anh hùng trữ tình đối với độc giả, mang những cảm xúc thật thân quen, gần gũi nhưng đối với bản thân anh ta dường như cuộc đời ấy chỉ chứa điều trống rỗng và sự tẻ nhạt. Dặm sọc - là một biểu tượng tiêu biểu của sự biến thiên trong cuộc sống, đó là sự hiện diện của các vạch sọc màu đen và trắng.
"Trên đường mùa đông vắng vẻ
Cỗ xe tam mã băng đi
Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ
Đều đều khắc khoải lòng quê.
Bài ca của người xà ích
Có gì phảng phất thân yêu
Như niềm vui mừng khôn xiết,
Như nỗi buồn nặng đìu hiu,
Không một mai lên, ánh lửa
Tuyết trắng và rừng bao la...
Chỉ những cột dài cây số
Bên đường sừng sững chờ ta"
Bài thơ mang cảm xúc chủ đạo là nỗi buồn man mác cùng niềm khao khát. Do đó, những cảnh sắc mộng mơ của cánh đồng cỏ buồn, đã được tác giả củng cố qua sự lặp lại của hình ảnh "ánh sáng buồn của mặt trăng." Cảnh vật chính là sự phản chiếu đúng nỗi lòng, tâm trạng của một người anh hùng trông thật vắng lặng, buồn tẻ và nhạt nhẽo. Sự nhàm chán đó lướt qua một lượt trên sự đơn điệu của cảnh sắc, trong hồi chuông, trong sự chảy trôi của thời gian đo được, trong những màn so tài sọc vượt qua khung cửa sổ. Sự nhàm chán ấy đã được tác giả truyền tải bằng cách sử dụng dấu câu chấm lửng. Dường như một tia hy vọng nào đó sẽ được trông thấy qua hình tượng người đánh xe ngựa, bài hát mà anh ấy ca, nó thể hiện rõ nét "sự vui chơi liều lĩnh". Khiến cho cô gợi nhớ về anh hùng của ngày xưa.
Ôi buồn đau, ôi cô lẻ...
Trở về với em ngày mai
Nhi-na, bên lò lửa đỏ
Ngắm em, ngắm mãi không thôi.
Kim đồng hồ kêu tích tắc
Xoay đủ những vòng nhịp nhàng,
Và xua lũ người tẻ ngắt
Để ta bên nhau trong đêm.
Ngủ quên bắc xã ích lặng im
Sầu lắm, Nhi-na: đường xa vắng,
Sương mờ che lấp anh trong nghiêng
Nhạc ngựa đầu đầu buồn xa thẳm,
Sương mờ che lấp ánh trăng nghiêng”
Hình ảnh những người thân luôn bên cạnh giúp bạn vơi đi sự chán trường trong suốt quãng đường đi. Người hùng trữ tình đã dũng cảm ngỏ lời với cô ấy, và anh ta hứa rằng họ sẽ sớm được ở bên nhau. Điều đó đã làm dịu bản thân. Làm cho những mạch suy nghĩ về nhân vật nữ chính tên là Nina, một cô gái mộng mơ, trữ tình sẽ tiếp thêm sức mạnh và không cho phép bạn được phát điên.
Các vần chéo được sử dụng một cách chính xác đã khắc họa nên một bức tranh rõ nét, thể hiện đúng nội dung của tác phẩm, nhờ đó đã thành công truyền tải hình ảnh và cảm xúc tới các độc giả. Chiều dài bốn mét chính là một thước đo chính cho bài thơ này.
“Con đường mùa đông” là một bài thơ thuộc thể loại trữ tình và sử thi, vậy nên tác phẩm mang một vẻ đẹp tuyệt vời, đồng thời miêu tả khung cảnh con đường mùa đông về đêm thật thơ mộng biết bao, trên bầu trời với đầy những đám mây hiếm hoi vây xung quanh vầng trăng tròn đang tỏa ra thứ ánh sáng đượm buồn. Trong thơ Puskin, cảnh sắc thiên nhiên bỗng trở nên thật sống động và bỗng dưng biến từ một sự phơi bày, tức là việc tả cảnh, trở thành một người anh hùng hành động. Qua đó đã thành công để lại trong lòng độc giả những ấn tượng sâu sắc.
Viết văn bản nghị luận về bài thơ Nhớ đồng
Tố Hữu - một nhà thơ cách mạng lừng danh, được kết nạp vào Đảng năm 1938. Đến năm 1939, trong quá trình hoạt động, ông bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ. Dù nhiệt huyết với cách mạng, ông vẫn bị giam cầm. Trong thời gian này, ông đã sáng tác tập thơ "Từ ấy", trong đó bài thơ "Nhớ đồng" thuộc phần "Xiềng xích", thể hiện nỗi nhớ quê hương và cách mạng trong những ngày tháng tù đày.
Trong cảnh ngục tù, người chiến sĩ cộng sản không tránh khỏi nỗi buồn và nhớ thương. Tiếng hò vang vọng đã đánh thức nỗi niềm nhớ quê hương da diết. Giữa không gian đồng không mông quạnh, một con người cô độc bị giam cầm, tách biệt khỏi cuộc sống bên ngoài.
"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò"
Cụm từ "Gì sâu bằng" diễn tả nỗi nhớ sâu thẳm trong lòng tác giả. Điệp từ "đâu" xuất hiện liên tục trong năm câu thơ, thể hiện sự day dứt, khát khao trở về với cuộc sống yên bình nơi quê hương:
"Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi...
Đâu những đường con bước vạn đời"
Bức tranh cuộc sống làng quê hiện lên sống động trong tâm trí người tù. Không chỉ là đồng lúa, khóm tre, mà còn là hình ảnh những con người lam lũ, vất vả nhưng ấm áp tình người.
"Đâu những lưng cong xuống luống cày...
Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi...
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi"
Hình ảnh người mẹ già càng làm tăng thêm nỗi nhớ thương khắc khoải. Tác giả như chìm đắm trong nỗi nhớ không nguôi: "Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ...". Những lời thơ như tiếng than thở trước hoàn cảnh bất lực của chính mình.
"Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi...
Trên chín tầng cao bát ngát trời"
Nhà thơ nhớ về quá khứ tăm tối của mình để khẳng định sự đúng đắn khi tìm thấy lý tưởng cách mạng. Tâm trạng u buồn bỗng chốc được thay thế bằng niềm vui và phấn chấn. "Nhẹ nhàng như con chim cà lơi", cánh chim tượng trưng cho sự tự do, và tác giả ví mình như cánh chim ấy, say đắm trong hoạt động cách mạng. Dù vậy, thực tại tù đày vẫn hiện hữu, hai câu thơ kết lặp lại hai câu đầu, nhấn mạnh sự bế tắc. Nhưng khát vọng tự do và cách mạng vẫn cháy bỏng trong tim người chiến sĩ.
Qua bài thơ "Nhớ đồng", người đọc không chỉ cảm nhận được tình yêu quê hương tha thiết của Tố Hữu mà còn thấy rõ hình ảnh một người chiến sĩ cộng sản yêu lý tưởng, yêu đất nước, và khát khao tự do, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc.
Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Áo trắng: Nghệ thuật xây dựng hình tượng và cảm xúc
Dàn ý
1. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả và tác phẩm: “Áo trắng” là một trong những bài thơ xuất sắc của Huy Cận, đại diện tiêu biểu cho tình yêu trong phong trào thơ Mới.
– Nêu nội dung khái quát: Bài viết sẽ phân tích và đánh giá chủ đề, cấu tứ, cùng những nét đặc sắc về hình ảnh trong bài thơ.
2. Thân bài:
*Luận điểm 1: Khái quát chung
- Cấu tứ: Là cách tổ chức hình ảnh, mạch cảm xúc, và sự khái quát hiện tượng đời sống thông qua hình tượng nghệ thuật, chi phối toàn bộ tác phẩm.
- Hình ảnh thơ: Là sự tái hiện sống động các sự vật, hiện tượng bằng ngôn từ, khơi gợi cảm xúc và ý nghĩa sâu sắc.
- Mối quan hệ giữa cấu tứ và hình ảnh: Cấu tứ định hướng hệ thống hình ảnh, trong khi hình ảnh làm rõ và sống động hóa cấu tứ.
*Luận điểm 2: Phân tích cấu tứ bài thơ.
- Tứ thơ xoay quanh cuộc gặp gỡ giữa đôi trai gái: cô gái đến thăm người yêu. Cuộc gặp được cảm nhận qua cái nhìn từ xa đến gần, và tâm trạng từ ngỡ ngàng đến say đắm của chàng trai.
- Bài thơ như một câu chuyện kể về sự phát triển của tình yêu, từ chớm nở đến viên mãn, thể hiện qua các cung bậc cảm xúc mãnh liệt.
* Luận điểm 3: Phân tích hệ thống hình ảnh trong bài thơ.
- Hình ảnh, chi tiết: Phân tích và đánh giá nghệ thuật xây dựng hình ảnh.
- Hình tượng trung tâm là cô gái, được miêu tả qua cái nhìn say đắm của chàng trai. Các hình ảnh đều tập trung làm nổi bật vẻ đẹp tinh khôi, thơ mộng của cô gái.
- Hình ảnh “áo trắng” tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khôi của tuổi học trò, tỏa sáng rực rỡ: “Nở bừng ánh sáng”.
- Bước đi của cô gái được miêu tả qua “gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng”, mang vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng.
- Khi đến gần, vẻ đẹp của cô gái hiện lên qua “bàn tay ngón ngón thon”, “đôi má nắng hoe tròn”, mái tóc xanh tràn đầy sức sống.
- Bài thơ kết thúc với hình ảnh “áo trắng” thăng hoa, trở thành biểu tượng của tình yêu thần tiên, đưa đôi hồn bay bổng.
- Hệ thống hình ảnh thống nhất làm nổi bật vẻ đẹp tinh khôi của cô gái và tình yêu tuổi học trò.
- Phân tích và đánh giá từng phần của bài thơ
- Mở đầu với hình ảnh “áo trắng”, tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khôi, tỏa sáng rực rỡ: “Nở bừng ánh sáng”.
- Bước đi của cô gái được miêu tả qua “gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng”, mang vẻ đẹp lãng mạn.
- Vẻ đẹp của cô gái hiện lên qua “bàn tay ngón ngón thon”, “đôi má nắng hoe tròn”, mái tóc xanh tràn đầy sức sống.
- Chàng trai say đắm trước tiếng nói ngọt ngào của người yêu, hứng trọn cả “tiếng lẫn lời”.
- Kết thúc bài thơ, hình ảnh “áo trắng” thăng hoa, trở thành biểu tượng của tình yêu thần tiên.
→ Hệ thống hình ảnh trong bài thơ tập trung làm nổi bật vẻ đẹp tinh khôi của cô gái và tình yêu tuổi học trò, tạo nên một tác phẩm thơ đầy cảm xúc và nghệ thuật.
*Luận điểm 4: Đánh giá
- Khẳng định giá trị tư tưởng và thẩm mỹ của bài thơ, làm nổi bật ý nghĩa sâu sắc và vẻ đẹp nghệ thuật.
- Tổng kết những nét đặc sắc về nghệ thuật, từ cấu tứ đến hệ thống hình ảnh, ngôn từ, và cách thể hiện cảm xúc.
- Xác định chủ đề: Bài thơ thể hiện tâm trạng ngỡ ngàng, say đắm trước vẻ đẹp tinh khôi, trong trắng của người yêu, đồng thời khắc họa niềm hạnh phúc ngất ngây của chàng trai trong tình yêu tuổi học trò.
- Phân tích và đánh giá chủ đề:
- Tình yêu tuổi học trò là chủ đề quen thuộc trong thơ ca hiện đại, nhưng bài thơ này mang nét độc đáo riêng, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
- Tình yêu trong bài thơ là niềm hạnh phúc kỳ diệu, biến cuộc đời thành một thế giới thần tiên. Qua tình yêu của đôi trai gái, bài thơ nhắc nhở chúng ta trân trọng tình yêu đẹp, biết tận hưởng và nâng niu những khoảnh khắc hạnh phúc trong đời.
3. Kết bài: Khẳng định sự độc đáo của bài thơ, đồng thời nhấn mạnh ý nghĩa của nó trong việc mang đến góc nhìn mới mẻ và cách cảm nhận mới cho độc giả.
Bài văn mẫu
Huy Cận, một nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới, thường mang đến những nỗi buồn man mác và nỗi hoài niệm về quá khứ. Tuy nhiên, bài thơ "Áo trắng" của ông lại mang một sắc thái khác biệt, thể hiện sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi, trong trắng của người yêu, cùng niềm hạnh phúc ngọt ngào của tình yêu tuổi học trò.
Tình yêu tuổi học trò là đề tài quen thuộc trong thơ ca, nhưng mỗi tác phẩm lại mang một nét độc đáo riêng. Tình yêu ấy mang đến sự hồn nhiên, ngây thơ, và trong sáng đến lạ thường. Trong bài thơ này, tình yêu giữa "anh" và "em" là niềm hạnh phúc diệu kỳ, khó diễn tả bằng lời, đồng thời nhắc nhở chúng ta trân trọng những khoảnh khắc đẹp đẽ trong tình yêu và cuộc sống.
Cấu tứ bài thơ được xây dựng một cách độc đáo, giống như một câu chuyện tình được kể bằng thơ. Từ cuộc gặp gỡ ban đầu, đến những cảm xúc bỡ ngỡ, rồi tình yêu trong sáng dần nảy nở, tất cả được diễn tả một cách tinh tế và sâu sắc.
Hình ảnh trung tâm của bài thơ là cô gái trong tà áo trắng tinh khôi. Trong mắt chàng trai si tình, mỗi bước đi, mỗi cử chỉ của cô gái đều để lại ấn tượng sâu đậm. Bài thơ khép lại với hình ảnh “áo trắng” thăng hoa, không còn là chiếc áo thực nữa mà trở thành đôi cánh thiên thần, biểu tượng của tình yêu thần tiên.
Toàn bộ bài thơ, từ hình ảnh đến chủ đề, đều mang tính độc đáo, đem đến cho người đọc những cảm xúc khó quên. Tác giả đã khắc họa thành công ký ức đẹp đẽ của tuổi thanh xuân và hình ảnh người con gái trong tà áo trắng sẽ mãi in sâu trong tâm trí.
- Soạn bài Trao đổi một vấn đề - Ngữ văn lớp 7 trang 70 sách Cánh diều tập 2: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Soạn bài Ghe xuồng Nam Bộ - Ngữ văn lớp 7 trang 76 sách Cánh diều tập 2: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Đất Nước kèm sơ đồ tư duy - 4 dàn ý chi tiết và 29 bài văn mẫu đặc sắc
- Đọc hiểu: Vòng tay bè bạn - Bài học ý nghĩa trong sách Tiếng Việt 4 tập 2 Chân trời sáng tạo
- Tập làm văn lớp 5: Tả cảnh bình minh trên quê hương em (2 bài văn mẫu) - Tuyển tập văn mẫu lớp 5 hay nhất