Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Kèm sơ đồ tư duy) - 3 Dàn ý & 17 bài văn mẫu xuất sắc
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ khắc họa sinh động bức tranh mùa xuân tràn đầy nhựa sống, đồng thời thể hiện khát vọng cao đẹp của thi sĩ Thanh Hải. 17 bài cảm nhận Mùa xuân nho nhỏ dưới đây sẽ giúp các em thấu hiểu sâu sắc hơn thông điệp của tác phẩm.

Mùa xuân nho nhỏ không chỉ là một bài thơ mà còn là sự cống hiến, là mùa xuân mà Thanh Hải gửi gắm đến đời và nền văn học Việt Nam với tất cả sự chân thành và trân quý. Cùng EduTOPS khám phá bài viết dưới đây để nâng cao kỹ năng học Văn lớp 9:
Cảm nhận của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
- Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
- Dàn ý cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (3 mẫu)
- Cảm nhận Mùa xuân nho nhỏ
- Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ hay nhất (12 mẫu)
- Cảm nghĩ về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
- Cảm nhận khi đọc bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
- Cảm nhận và suy ngẫm của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
- Cảm nghĩ Mùa xuân nho nhỏ hay nhất
- Tư liệu liên hệ, mở rộng "Mùa xuân nho nhỏ"
- Những nhận định hay về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Dàn ý cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Dàn ý 1
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Thanh Hải và bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.
2. Thân bài
a. Khổ thơ thứ nhất
- Vẻ đẹp mùa xuân qua cảm nhận của tác giả:
- Bông hoa tím biếc, con chim chiền chiện hót vang trời, tác giả cô đọng giọng hót của con chiền chiện thành giọt long lanh và giơ tay ra để cảm nhận.
→ Vẻ đẹp mùa xuân qua cách cảm của tác giả trở nên đẹp đẽ, nhiều màu sắc và đáng yêu, đáng mến.
b. Khổ thơ thứ hai
- Ở khổ thơ này, tác giả cảm nhận về vẻ đẹp của con người lao động:
- Hình ảnh con người lao động trong mùa xuân gắn liền với với màu xanh của chồi lộc, một màu sắc tràn đầy sức sống, cả đất trời như được sinh sôi nảy nở.
c. Khổ thơ thứ ba
- Sau khi cảm nhận về mùa xuân của thiên nhiên và con người, tác giả cảm nhận về mùa xuân của cả đất nước.
- Đất nước tuy còn nhiều gian lao, khổ cực nhưng vẫn hướng về phía trước với niềm phấn khởi, hào hứng.
d. Ba khổ thơ cuối - Ước nguyện của nhà thơ
- Ước muốn của tác giả: trở thành con chim, làm cành hoa để nhập vào bản hòa tấu chung của đất nước, của dân tộc một giai điệu trầm ấm.
- Khao khát cống hiến của tác giả: muốn được dâng hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước dù là khi còn trẻ hay lúc về già.
- Tâm trạng của tác giả vào mùa xuân: hát vang câu hát Nam ai, Nam bình để hòa chung không khí vui vẻ cho cả dân tộc.
3. Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Dàn ý 2
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Thanh Hải và bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ".
- Cảm nhận chung về bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ".
II. Thân bài
1. Cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên
- Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong tưởng tượng của tác giả:
- Các hình ảnh đặc trưng của mùa xuân: hoa tím, sông xanh, bầu trời cao rộng
- Âm thanh tiếng chim chiền chiện.
- Giọt long lanh: hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác độc đáo.
=> Tác giả say đắm trong mùa xuân của thiên nhiên đất trời với tâm thế đón nhận trân trọng
2. Cảm xúc trước mùa xuân của đất nước
- Hình ảnh lộc xuân trên “nương mạ”: cuộc sống lao động xây dựng đất nước của lực lượng sản xuất.
- Hình ảnh người cầm súng: niềm tin vào ngày mai hòa bình.
- Từ láy “hối hả” và “xôn xao”: thể hiện nhịp sống lao động khẩn trương vội vã nhưng nhộn nhịp, vui vẻ kết hợp hài hòa với nhau.
- Đất nước được so sánh với những hình ảnh đẹp đẽ, kì vĩ.
- Nhắc nhở mọi người nhớ về những tháng ngày gian khổ trong chiến đấu, cách mạng
- Phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước dù khó khăn gian khổ.
=> Sự lạc quan tin tưởng của nhà thơ ca ngợi sức sống, sự vươn lên mạnh mẽ của đất nước, dân tộc cho dù trước mắt trải qua nhiều khó khăn, gian khổ
3. Mong ước được cống hiến của nhân vật trữ tình
- Điệp ngữ “ta” kết hợp với các hình ảnh “con chim hót, một nhành hoa, nhập vào hòa ca”: hòa nhập giữa cái riêng và cái chung.
- Hình ảnh ẩn dụ “mùa xuân nho nhỏ”: thể hiện khát vọng được cống hiến và sống ý nghĩa được thể hiện một cách thiết tha.
- Điệp ngữ “dù” kết hợp với “tuổi hai mươi” - còn trẻ, “khi tóc bạc” - già dặn: khát vọng được cống hiện trọn đời.
- Khát vọng sống với tình yêu quê hương, đất nước: xin được hát câu Nam ai, Nam bình để đón mùa xuân, ca ngợi mảnh đất Huế mộng mơ.
III. Kết bài
- Đánh giá về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.
Dàn ý 3
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.
2. Thân bài
a. Bức tranh xuân thiên nhiên trên miền đất Huế thật đẹp, thật tình:
- Nơi dòng Hương Giang êm đềm trong trẻo, một bông hoa lục bình tím biếc đang khoe sắc rực rỡ.
- Màu tím biếc của hoa kết hợp cùng màu xanh trong của dòng nước mang đến bức tranh mùa xuân hài hòa, tràn đầy sức sống.
- Tiếng hót trong trẻo, vang vọng của chú chim chiền chiện làm cho bức tranh tràn ngập không khí mùa xuân.
- Nàng xuân kiêu kỳ mang giọt xuân đến cho đời
b. Xuân đồng hành cùng con người, cùng nhân dân:
- Mùa xuân - Người cầm súng: đó là những ngày chiến đấu, mang trên đôi vai quyết tâm và ý chí kiên cường.
- Mùa xuân - người ra đồng, đó là vẻ đẹp của nhân dân lao động, chịu thương chịu khó; là nhiệm vụ lao động sản xuất thời hậu chiến.
- "Lộc" xuân không chỉ là lộc non xanh biếc của lá cành, lúa nương mà nó còn là lộc của thắng lợi chiến đấu, của những thành quả trong sản xuất tăng gia.
- Các từ " hối hả"; " xôn xao", càng làm nổi bật không khí thi đua, thúc giục nhau lao động dựng xây đời.
c. Xuân ca khúc hát tự hào:
- Sau ngàn năm vất vả đất nước được thái bình
- Niềm tin vào một ngày mai tươi sáng
d. Ý nguyện cao quý của thi nhân:
- Nguyện làm cành hoa nhỏ bé, làm nàng chim xanh, làm một nốt trầm lặng trong khúc ca cuộc đời.
- Nguyện sống một cuộc đời thật ý nghĩa
3. Kết bài
- Cảm nghĩ về giá trị bài thơ.
Cảm nhận Mùa xuân nho nhỏ
Mùa xuân là đề tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:
“Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai”
Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:
“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.”
(Chế Lan Viên)
Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà thơ viết không lâu trước khi qua đời.
Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
“Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế mộng mơ. Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”.
Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của Thanh Hải mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. Không biết tự bao giờ màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím dịu dàng thướt tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ “mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Trong bức tranh mùa xuân của Thanh Hải, không chỉ có hình ảnh, mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nga của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán “ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất. Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra vẻ đẹp lạ kì của mùa xuân, một vẻ đẹp mà bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn?
Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm? Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ. Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế.
Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào chiến thắng cho dân tộc. Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…”
Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vã, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua bốn ngàn năm lịch sử.
Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ hay nhất
Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 1
Không biết đã từng có, sẽ còn có bao nhiêu bài viết về “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải? Vậy điều gì đã làm nên sức sống lâu bền cho bài thơ? Mỗi người sẽ có một cách lí giải không hoàn toàn giống nhau, nhưng chắc chắn sẽ gặp nhau ở một điểm chung cơ bản là: chính sự chân thành, giản dị của cảm xúc đã làm nên sức sống cho tác phẩm này!
Trước hết cần phải khẳng định rằng, Thanh Hải hoàn toàn có quyền tự hào về cái “tôi” đã sống hết “công suất” từ tuổi 17 đến tuổi 50 của mình. Thông thường, khi con người biết chắc chắn rằng, mình đang sống trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời thì bao giờ người ta cũng tự soát xét lại nhân cách của mình một cách nghiêm khắc nhất. Vì thế, lúc nằm trên giường bệnh, Thanh Hải mới thấm thía nỗi cô đơn, bất lực của một cá nhân khi đang dần dần bị tách ra khỏi cộng đồng, một con người đang bị tước dần quyền làm việc. Chính tình cảm bị nén chặt đã bùng nổ thành khát vọng, thành bệ phóng cho sự sáng tạo. Nếu bản chất của sự sáng tạo là sự bất tử thì đây chính là khoảnh khắc thăng hoa tất cả những gì mà Thanh Hải đã chiêm nghiệm để viết thành bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Và khổ thơ đầu đã xuất hiện thật tự nhiên:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Khi Thanh Hải viết “Mọc giữa dòng sông xanh / Một bông hoa tím biếc” thì đây không chỉ là ngoại cảnh hay tâm cảnh, mà còn mang dáng dấp của một triết lí sống và sự bất tử. Dòng sông xanh vừa là chính nó và cũng vừa là một hình tượng về thời gian. Đó là dòng chảy vô thủy vô chung, vô tận và lạnh lùng của thời gian. Nó vừa là tác nhân tạo dựng, nâng niu “Một bông hoa tím biếc”, đồng thời cũng là một tác nhân bào mòn, hủy diệt tất cả. “Bông hoa tím biếc” đang hiện hữu kia sẽ trở thành hòai niệm để ngày mai sẽ có một bông hoa khác, cùng loài. Dòng sông thì vĩnh cửu, còn bông hoa dù có rực rỡ đến đâu chăng nữa thì cuối cùng cũng trở thành dĩ vãng. Cũng như mỗi đời người, dù có chói sáng đến đâu chăng nữa, rốt cuộc vẫn phải ra đi theo quy luật sinh tử của muôn đời.
Thông qua các hình tượng nghệ thuật, chúng ta có thể cảm nhận được ý nghĩa đích thực của cuộc sống, ngay trong mạch cảm xúc buồn nhớ mênh mông, trong tâm tưởng của ông vẫn vang lên những âm thanh reo vui của cuộc sống: “Ơi con chim chiền chiện / Hót chi mà vang trời”. Tiếng chim hót là âm thanh của tự nhiên nhưng nó đã cộng hưởng với tiếng reo vui trong tâm hồn của nhà thơ, đó là tiếng reo vui của niềm tự hào về cái “tôi” trọn vẹn và thanh thản. Một bông hoa có thể sẽ tàn nhưng vẻ đẹp của nó thì vẫn còn ám ảnh lâu bền trong tâm trí con người. Một con người có thể sẽ phải ra đi vĩnh viễn, nhưng những đóng góp có giá trị về tinh thần của con người ấy thì có thể sẽ còn mãi với thời gian. Với niềm tự hào chân thành ấy, nhà thơ dường như đã bứt hẳn ra khỏi tâm trạng man mác hư vô để hòa mình vào không khí rộn rã, náo nức của mùa xuân; để cảm nhận và thâu nhận được cái “hồn vía” tưởng như rất vô hình của không gian và thời gian đang thấm đẫm sắc xuân, hương xuân:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Chúng ta đã từng bất lực trước một “tiếng huyền” trong “Thơ duyên” của Xuân Diệu, một “vị xa xăm” trong “Quê hương” của Tế Hanh, nay có lẽ cũng sẽ bất lực trước “Từng giọt long lanh rơi” của Thanh Hải? Bất lực vì không thể giải thích một cách tường minh xem “tiếng huyền” là tiếng gì, “vị xa xăm” là vị gì và “từng giọt” là giọt gì, nhưng vẫn có thể cảm nhận bằng linh giác, bằng trí tưởng tượng...về cái hay, về vẻ đẹp và sự độc đáo của các hình tượng đa nghĩa này. Nếu “tiếng huyền” là những âm thanh xao xuyến ngân vang trong tâm hồn để trở thành âm hưởng chủ đạo cho “một cõi yêu đương”, “vị xa xăm” là hoài niệm về một thời thăm thẳm thì “từng giọt” có thể là những niềm vui lớn có khả năng làm hồi sinh lòng ham sống của một con người đang ý thức rất sâu sắc về cái chết không sao cưỡng nổi đang đến với mình từ từ, lạnh lùng và tàn nhẫn! Hiểu như thế chúng ta mới có thể đồng cảm và xúc động trước một hành động tha thiết hướng tới sự sống của nhà thơ: “Tôi đưa tay tôi hứng”!
Từ hành động tha thiết hướng tới sự sống ấy, tác giả đã tái hiện cuộc sống lao đọng và chiến đấu sôi nổi, háo hức mà mình từng gắn bó suốt đời:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao...”
Đây là niềm vui được bắt nguồn từ niềm tin sắt đá vào tương lai của đất nước:
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Đất nước hình thành, tồn tại và phát triển trong chiều dài của “bốn ngàn năm” lịch sử và chiều sâu của những nghĩ suy trăn trở để tỏa sáng “như vì sao” trong kí ức của mỗi con dân đất Việt. Chính “vì sao” ấy là vầng hào quang của quá khứ và cũng là điểm tựa tinh thần cho hiện tại. Như mọi công dân chân chính khác, trong cái “Vất vả và gian lao” của đất nước, tác giả cũng có phần đóng góp công sức nhỏ bé của mình, đó là phần đóng góp tự nguyện như một lẽ sống:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Cái “tôi” của nhà thơ như một dòng suối nhỏ khiêm nhường đã hòa vào cái “ta” của “dòng sông xanh” trên quê hương, đất nước mình. Từ vị thế của cái “ta, chúng ta”, tức là vị thế của người trong cuộc, nhà thơ đã chân thành tâm sự với bạn bè, đồng chí của mình về một lẽ sống thật giản dị.
Bài thơ ra đời vào tháng 11 năm 1980, đó là một năm trong thập kỉ (1976 – 1986) khi đất nước ta đang phải đối mặt với những khó khăn đặc biệt gay gắt. Làm sao Thanh Hải lại không buồn về những điều đó? Nguyễn Duy “giật mình” trước “đột ngột vầng trăng tròn” thì Thanh Hải chắc cũng giật mình khi chợt nghe tiếng chim hót, bông hoa nở...thì đã, đang và sẽ mãi mãi tồn tại; đó là những giá trị vĩnh cửu; đó là cái đẹp vĩnh cửu...Thế còn cái đẹp trong quan hệ giữa con người với con người? Trong quan hệ giữa cái “tôi” với cái “ta”? Liệu có vĩnh cửu không? Thanh Hải không trả lời trực tiếp câu hỏi này mà thay vào đó bằng một lời nhắn nhủ. Ông đã nhắn nhủ điều gì?
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
Làm con chim thì phải có tiếng hót riêng. Làm bông hoa thì phải có hương sắc riêng. Nhưng những cái riêng ấy chỉ được xác lập giá trị trong quan hệ với cái chung, tức là với những cá thể cùng loài xung quanh. Không thể và cũng không nên so sánh giữa tiếng hót của con chim với hương sắc của bông hoa, cái nào có ích hơn, cái nào quan trọng hơn?... Mỗi người cũng vậy, có một giá trị riêng không thể so sánh. Vì thế trong bản “hòa ca” đoàn kết, nên có người ở vị trí khiêm tốn như một “nốt trầm”. Nhưng một “nốt trầm” ấy phải có bản sắc riêng của mình như tiếng hót riêng của mỗi con chim và hương sắc riêng của mỗi bông hoa bởi đó là bản “hòa ca” có “nhạc luật” chứ đâu phải là “hòa tan”: một cách vô vị, nhạt nhẽo?
Nếu mùa xuân của đất nước là một mùa xuân lớn thì mùa xuân lớn ấy lại được kết dệt bởi muôn vàn những mùa xuân nhỏ khác, đó là mùa xuân của mỗi đời người:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Mỗi đời người lại giống như một dòng suối nhỏ lặng lẽ góp nước cho một dòng sông lớn để dòng sông lớn ấy góp nước cho đại dương. Cái sự “góp nhặt” ấy cứ lặp đi lặp lại tới muôn đời, cho dù là có tự giác hay không tự giác thì nó vẫn cứ diễn ra như vậy, không thể nào khác! Điều quan trọng là ở chỗ sự “góp nhặt” ấy phải kiên trì, bền bỉ trong mọi hoàn cảnh thăng trầm của cuộc đời để cuối cùng nó vượt lên hoàn cảnh như một đức hi sinh cao cả: “Dù là tuổi hai mươi / Dù là khi tóc bạc”. Đó chính là phẩm chất cao quý của ý thức tự nguyện hi sinh cái “tôi” cho cái “ta” bao la của mùa xuân đất nước:
“Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
Mùa xuân đẹp quá khiến ta bất giác cất lên lời. Tất cả đều xao xuyến, bồi hồi trong giai điệu buồn của câu “Nam ai” và chất trữ tình của câu “Nam bình”; trong “nhịp phách tiền” rất đỗi thân quen nhưng dường như bỗng trở nên da diết như một lời chào tiễn biệt? Trong cái mênh mông của “Nước non ngàn dặm”, nơi nào mà chẳng thấm đẫm tình bạn, tình người và tình yêu? Nơi nào mà ta chăng lưu luyến, bâng khuâng? Vì thế mà nỗi nhớ nhung cũng mênh mông không bến bờ! Giờ đây, nằm trên giường bệnh, ta dường như đang trôi trong vầng hào quang của hoài niệm...Cuộc đời ồn ào náo động xa dần, mơ hồ, văng vẳng... nhưng dường như càng xa nó càng trở nên cồn cào hơn, tha thiết hơn!
Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - Mẫu 2
Mùa xuân luôn là đề tài phong phú cho các thi nhân thử bút. Đã có không ít bài thơ hay viết về mùa xuân. Nhà thơ Thanh Hải cũng khá thành công khi viết bài thơ Mùa xuân nho nhỏ để nói lên ước nguyện khiêm tốn của mình, ước nguyện được dâng hiến mùa xuân bé nhỏ của mình vào mùa xuân chung của dân tộc, vào xuân bất tận của đất trời.
Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn, sinh ngày 4-11-1930, ở Thừa Thiên Huế. Ông hoạt động cách mạng từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thanh Hải là một trong những cây bút có công lớn trong việc xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Mùa xuân nho nhỏ là bài thơ cuối cùng của Thanh Hải, được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời (1980). Bài thơ thể hiện cái nhìn tươi tắn, lạc quan của tác giả đối với đất nước, với con người Việt Nam trong thời kì cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mở đầu bài thơ, Thanh Hải dựng lên khung cảnh của một mùa xuân:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi, con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Không gian mùa xuân hiện lên trước hết từ một dòng sông xanh với một bông hoa tím biếc. Đây là những hình ảnh vốn rất riêng của quê hương xứ Huế – quê hương yêu dấu của tác giả. Sự hoà hợp giữa màu xanh của dòng sông và sắc tím của bông hoa đã tạo nên một cảm giác mát dịu. Khung cảnh mùa xuân còn gợi lên những âm thanh quen thuộc, vui tươi của con chim chiền chiện, loài chim thường xuất hiện vào mùa xuân, như một dấu hiệu của mùa xuân. Tiếng hót của con chim chiền chiện vang trời đã làm cho không khí mùa xuân trở nên náo nức lạ thường. Tiếng chim chiền chiện đã được cụ thể hoá, hình tượng hoá. “Từng giọt long lanh rơi / Tôi đưa tay tôi hứng” là một hình thức chuyển đổi cảm giác. Âm thanh vốn chỉ nghe thấy, nhưng được chuyển đổi nên có thể cảm nhận, nhìn thấy và có thể tiếp xúc được. Ngay trong đoạn mở đầu, chúng ta đã hình dung được tâm trạng say mê, đầy hào hứng của nhà thơ trước mùa xuân mới của đất trời.
Bài thơ được viết khi cả nước đang trong không khí xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong không khí chung đó, không thể thiếu hình ảnh của những người đã cầm súng bảo vệ Tổ quốc và những người làm ra hạt gạo nuôi sống bao thế hệ:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy bên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.
Những người đang ngày đêm cầm súng bảo vệ tổ quốc và những người góp phần xây dựng quê hương đã được tác giả nhắc đến đầu tiên trong bài thơ. Đó là những người đã chịu nhiều hi sinh trong kháng chiến cũng như trong thời bình. Mùa xuân hiện hữu trong tất cả các hoạt động, mùa xuân theo người chiến sĩ ra mặt trận, mùa xuân theo người nông dân ra đồng. Mùa xuân không còn là khái niệm thời gian mà đã trở thành người bạn của những người ngày đêm làm giàu và mang lại bình yên cho dân tộc. Xuân trong thơ Thanh Hải gần như đã có hồn và dường như thật hối hả trong nhịp sống chung của dân tộc. Nhắc đến hình ảnh người lính, tác giả không quên lịch sử hào hùng của dân tộc:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
Bằng những câu thơ giản dị, tác giả đã khái quát một cách cô đọng lịch sử của dân tộc, Chặng đường dân tộc đã đi qua thật dài và nhiều chông gai. Nhưng không vì thế mà làm cho bước đi của dân tộc bị chậm lại. Đất nước vẫn như những vì sao tiến lên phía trước. Câu thơ chính là lòng tin và niềm tự hào của tác giả vào đất nước, vào Đảng, vào sự nghiệp cách mạng. Cảm động biết bao khi đó là lời của một người đang nằm trên giường bệnh và sắp từ biệt cõi đời. Phải là người có sức sống, niềm lạc quan và tin tưởng nồng nhiệt mới có được những vần thơ như thế.
Nhan đề Mùa xuân nho nhỏ mang nhiều ý nghĩa. Mùa xuân với khái niệm thời gian đã được tác giả chuyển thành khái niệm của một sự vật nhất định. Chủ đề của bài thơ bộc lộ rõ qua đoạn thơ:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập trong hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Đến đây cái tôi đã được thay bằng cái ta và cảnh vật của thiên nhiên trong mắt quan sát của nhà thơ đều được thu nhỏ lại trong cái ta ấy. Mỗi một bông hoa, mỗi một tiếng chim, mỗi cảnh vật thiên nhiên đều góp phần tạo nên mùa xuân chung của đất nước. Và ta là tác giả cũng là một con người cụ thể, ta hãy như con chim chiền chiện, như bông hoa tím biếc trên dòng sông xanh, như một nốt trầm trong bản hoà ca xao xuyến của dân tộc. Cái ta chỉ khiêm tốn giữ vị trí của nốt trầm trong bản nhạc. Mỗi con người đều là một mùa xuân nho nhỏ, cống hiến sức lực và cuộc đời của mình để làm nên mùa xuân lớn của đất nước, của dân tộc.
Khổ thơ cuối cùng là lời tâm tình của tác giả, lời của một đứa con nói với quê hương:
Mùa xuân – ta xin hát Câu Nam ai
Nam bình Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Khổ thơ mang đậm làn điệu dân ca xứ Huế và là khổ thơ duy nhất trong bài có hình ảnh Huế – quê hương của tác giả. Không vì thế mà bài thơ không chứa trong đó tình cảm của tác giả đối với quê hương. Cái hay của câu thơ ở chỗ đã đúc kết được tất cả vẻ đẹp của mùa xuân, của xứ Huế thơ mộng và chất chứa trong đó là nỗi niềm của một người con đang sống những ngày cuối cùng của cuộc đời.
Bài thơ được viết khi tác giả phải nằm trên giường bệnh nhưng vẫn tràn đầy lòng yêu đời, yêu cuộc sống và hơn cả là tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm của nhà thơ đối với đất nước. Đó chính là thông điệp Thanh Hải gửi đến tất cả mọi người: “Hãy góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân chung của đất nước, của dân tộc”.
....
Cảm nghĩ về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Mùa xuân là mùa của những sự khởi đầu mới, mùa mà vạn vật như hồi sinh, mùa mà nhựa sống của thiên nhiên và con người dâng trào mãnh liệt nhất. Mùa xuân cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho những thi sĩ yêu thiên nhiên. Và Thanh Hải cũng là một trong những người thi sĩ như thế! Bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết, tình yêu đất nước nồng nàn và khát vọng cao đẹp của mình, Thanh Hải đã sáng tác Mùa xuân nho nhỏ - bài thơ đẹp đẽ ghi dấu ấn cuộc đời của ông.
Nhắc đến những bài thơ về mùa xuân, người ta có thể ngay lập tức nhớ tới Vội vàng của Xuân Diệu – một bài thơ xuân ngọt ngào, thắm đượm:
"Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân đã già"
Thế nhưng, người ta cũng không thể nào quên được hình ảnh của một mùa xuân thấm đẫm tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước và khát vọng được dâng hiến cháy bỏng của Thanh Hải trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được.
Nếu như Xuân Diệu bắt đầu bài thơ xuân của mình bằng một ước muốn rằng:
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi"
Thì Thanh Hải lại mở đầu bài thơ xuân của mình bằng cả một không gian rộng lớn bao la với chim chóc, hoa lá, với dòng sông, … trong trí tưởng tượng của mình:
"Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"
Tại sao nói tất cả không gian rộng lớn kia, tất cả tạo vật đang hoan hỉ trong bức tranh kia là trong tưởng tượng của tác giả? Đó là bởi vì khi ông viết lên những dòng thơ đầu tiên của bài thơ này, ông đang nằm dưỡng bệnh tại quê nhà ở Huế của mình vào tháng mười một năm 1980. Ấy thế mà cả mùa xuân hiện lên thật rực rỡ, thật đậm sắc qua từng hình ảnh thơ của Thanh Hải. Ông đã khắc họa cái không gian rộng lớn, thoáng đãng khi mùa xuân ào đến, cùng với sắc hoa, cùng với chim chóc và dòng sông, tạo nên một bức tranh mùa xuân đẹp tuyệt vời.
Xuất hiện ngay ở dòng thơ đầu tiên là hình ảnh của một bông hoa nhỏ, mọc lên từ giữa dòng sông xanh biêng biếc. Chỉ có "một bông hoa tím biếc" như là một dấu hiệu báo cho con người và vạn vật rằng nàng xuân đã đến rồi. Bông hoa ấy chẳng phải màu đỏ rực, chẳng phải màu vàng phai, hồng thắm mà lại là màu "tím biếc". Đây là màu sắc đặc trưng của quê hương ông – xứ Huế mộng mơ. Người ta biết đến Huế với những nhịp cầu Tràng Tiền nhịp nhàng với những tà áo dài Huế tím biêng biếc say mê, thế nên chẳng phải tự nhiên mà ông mang cái màu sắc đặc trưng ấy vào trong dòng thơ đầu tiên của Mùa xuân nho nhỏ. Đó phải chăng là một tình yêu thương thắm thiết với quê hương mà Thanh Hải muốn gửi gắm qua từng dòng thơ của mình?
Xứ Huế còn được đặc trưng bởi dòng sông "trăm thứ hương đổ về" – sông Hương. Và Thanh Hải đã đặt dòng sông ấy vào ngay trong câu thơ đầu tiên như để tri ân với quê hương. Một dòng sông Hương "xanh" biêng biếc đang lững lờ uốn lượn, trải dài trước mắt của chúng ta. Nó đang chở trên lưng mình một trong những dấu hiệu đầu tiên của mùa xuân, đó là một bông hoa "tím biếc". Bông hoa ấy "mọc" lên ở giữa dòng sông, đột ngột, bất ngờ như báo hiệu mùa xuân đến thật bất chợt. Động từ "mọc" được ông đảo lên ngay đầu câu thơ càng làm cho chúng ta thấy rõ sự xuất hiện quá đỗi bất ngờ của bông hoa ấy. Bông hoa ấy không phải màu hồng phai, màu đỏ rực, … mà lại mang một màu tím – sắc màu thân thương của xứ Huế. Bông hoa ấy nở giữa dòng sông, ánh lên trong ánh nắng mới lóng lánh.
Không gian mùa xuân trong trí tưởng tượng của Thanh Hải không chỉ có hoa xuân mà còn những chú chim nhỏ bé nữa. Những chú chim ấy cũng như bông hoa kia, cũng là một người đưa tin cho mùa xuân. Giữa không gian bao la của bầu trời cao rộng, chú chim rướn mình, cất lên tiếng hót lanh lảnh, gọi mùa xuân về. Loài chim mà Thanh Hải miêu tả ở đây là "chim chiền chiện" – một loài chim quen thuộc, gắn bó thân thiết với nhà nông. Chú chim ấy cất tiếng hót vang, và nhà thơ đã không ngần ngại mà cất tiếng gọi:
"Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời"
Đây có phải chăng là một tiếng trách cứ, hờn dỗi đáng yêu của nhà thơ với chú chim đáng yêu kia chăng? Ông cất tiếng gọi "ơi" với chú chim, tiếng gọi tha thiết, thân thương như đối với một người thân thuộc. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hóa chú chim ấy như một con người thực thụ, và con người ấy đang cất tiếng gọi mùa xuân về. Câu thơ tiếp theo, nhà thơ trách cứ chú chim "hót chi mà vang trời", nghe thật đáng yêu làm sao! Chữ "chi" là giọng điệu mang âm hưởng của xứ Huế thân yêu. Tiếng chim lanh lảnh xuyên qua tầng không, vang vọng trong tâm trí, tâm hồn nhà thơ khiến ông rạo rực quá! Nằm ở giường bệnh, nhưng ông muốn cất bước thật nhanh ra ngoài kia mà tận hưởng cho hết cái không khí của mùa xuân đang tràn về.
Thế nhưng, đặc sắc nhất trong đoạn thơ này phải kể tới hai câu thơ cuối của khổ thơ. Chỉ với hai câu thơ này, Thanh Hải đã dường như nắm bắt được cái hồn của mùa xuân:
"Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"
Tiếng chim trên cao vọng xuống từng hồi lảnh lót, gọi nàng xuân về trong yêu thương. Tiếng chim ấy dường như đang cô đặc lại dần thành từng giọt mà nhỏ xuống thế gian, để thế gian bắt đầu một nguồn sống mới. Từng giọt mật mùa xuân trên cao rơi xuống, nhà thơ bất chợt đưa tay ra "hứng" lấy nó như để bắt trọn mùa xuân trong tay. Đọc thơ mà người ta như thấy được hình ảnh của Thanh Hải đang nâng niu hứng từng giọt mật xuân rơi xuống trong niềm vui, đắm đuối vô tận. Ở đây, Thanh Hải đã vô cùng tinh tế khi sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác để miêu tả về mùa xuân. Mùa xuân không còn là một thứ vô hình nữa mà đối với nhà thơ, mùa xuân trở thành một thực thể hữu hình mà ông có thể sờ, "hứng", chạm và nếm thử. Hành động "hứng" giọt mùa xuân của nhà thơ là một hành động của một con người mang trong mình tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với mùa xuân. Với ông, tận hưởng mùa xuân trọn vẹn phải là sự tận hưởng ngay trong giây phút đầu tiên. Phải nhớ rằng, lúc này, nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, vậy mà chỉ bằng trí tưởng tượng của mình, ông đã dựng lên bức tranh mùa xuân đẹp đến như thế!
Bức tranh mùa xuân của Thanh Hải được dựng lên trong niềm yêu thương tha thiết với thiên nhiên. Bức tranh ấy được ông mường tượng ra trên giường bệnh nhưng lại mang đậm nét linh hồn xứ sở quê hương Huế thân yêu, vừa giản dị lại vừa gần gũi vô cùng. Có lẽ, trong giây phút ấy, Thanh Hải đã khao khát cháy bỏng được rời khỏi giường bệnh, được bước ra ngoài với thiên nhiên, được ôm trọn thiên nhiên vào lòng để mà tận hưởng cái không khí mùa xuân đang dâng tràn trong tâm trí mình.
Viết bài thơ về mùa xuân, Thanh Hải còn dựng lên bức tranh mùa xuân của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Đây như là một cách thức để ông biểu đạt tình yêu quê hương của mình:
"Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…"
Nếu như mùa xuân của thiên nhiên với dấu hiệu là những bông hoa tím, là tiếng hót của những chú chim "chiền chiện" thì mùa xuân của đất nước lại được đánh dấu bằng hình ảnh của "người cầm súng" và "người ra đồng".
Như chúng ta đã biết, năm 1980, đất nước ta đang bước vào công cuộc xây dựng mạnh mẽ với hai nhiệm vụ chính là chiến đấu và sản xuất. Vậy nên, Thanh Hải đã dùng hai nhiệm vụ này để miêu tả về mùa xuân của đất nước. Mùa xuân hiện lên trên vai "người cầm súng" là những cành lộc non "giắt" trên lưng áo ngụy trang. Những chồi non xanh biếc ấy như những niềm hy vọng, sự tin tưởng và sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam qua bao thời kỳ. Còn mùa xuân của "người ra đồng" là những "lộc" non của lúa, của mạ non để cấy cày, sản xuất, trở thành hậu phương vững chắc cho những người anh hùng "cầm súng".
Có thể thấy, sản xuất và chiến đấu luôn luôn song hành cùng nhau, bởi chỉ có vậy chúng ta mới có thể cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước chúng ta phát triển ngày một tươi đẹp hơn. Đọc khổ thơ, người ta nhận thấy rằng mùa xuân của hai nhiệm vụ của đất nước đã hòa làm một thành mùa xuân của Tổ quốc, mùa xuân của hòa bình và phát triển.
Giữa sự chuyển mình của đất nước, tất cả vạn vật của Tổ quốc ta dường như cũng đang vội vã, "hối hả" chuyển mình. "Tất cả" đều "xôn xao", "hối hả" trong công cuộc đổi mới ấy. Hai từ láy liên tiếp "hối hả", "xôn xao" như diễn tả sự mau lẹ, sự nhanh chóng, gấp gáp của con người cũng như mọi vật. Tất cả như muốn góp một phần sức lực của mình để chung tay xây dựng mùa xuân của đất nước.
"Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao"
Điệp từ "như" được Thanh Hải sử dụng trong hai câu thơ như để diễn tả nhịp điệu khẩn trương, mau lẹ. Cả đất trời, con người đang giao hòa thật hối hả, thật gấp gáp, thúc giục mọi người qua từng câu chữ. Ngay chính tác giả, dường như ông cũng đang rạo rực, muốn được hòa mình vào cùng mọi người để xây dựng Tổ quốc.
Đây là hình ảnh của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới, không còn chiến tranh, chỉ còn công cuộc xây dựng đất nước đi lên trong hòa bình, tạo nên một mùa xuân rực rỡ cho dân tộc Việt Nam.
Không chỉ nhìn ngắm thực tại, Thanh Hải còn hồi tưởng qua từng dòng thời gian của lịch sử dân tộc, nơi khởi nguồn cho mạch sống trường tồn của đất nước. Nhịp thơ ở đây không còn gấp gáp, hối hả như khổ thơ trên mà nhẹ nhàng, chậm rãi như một cuốn phim quay chậm. Những thước phim ấy đang sống dậy những trang sử hào hùng của dân tộc ta.
"Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước".
Trải qua "bốn ngàn năm" dựng xây và giữ nước, những "vất vả và gian lao" mà dân tộc ta đã trải qua là những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, trải dài từ khi vua Hùng Vương dựng nước và tới tận gần đây nhất là hai cuộc chiến tranh chống Pháp và đế quốc Mỹ. Ẩn sau từng câu chữ, người ta như thấy được niềm xúc động, tự hào của Thanh Hải trước công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử xa xôi ấy.
Đất nước đẹp như một bức tranh và sáng như một vì sao tỏ. Thanh Hải đã không ngần ngại mà so sánh hình ảnh của một Việt Nam kiên cường như một vì sao sáng trên bầu trời. Đây là niềm tự hào của Thanh Hải về non sông, đất nước Việt Nam, một đất nước mà luôn chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, lúc nào cũng tỏa sáng rực rỡ "rũ bùn đứng dậy sáng lòa".
Bức tranh về mùa xuân của đất trời, mùa xuân của đất nước được Thanh Hải truyền tải bằng tất cả sự trân trọng, tự hào và yêu thương nhất. Nếu mùa xuân của thiên nhiên vạn vật là những màu sắc tươi thắm nhất, những dấu hiệu đẹp đẽ nhất thì mùa xuân của đất nước lại đến cùng với công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, cùng với những con người "hối hả". Dân tộc ta như Thanh Hải đã nói, đã trải qua bốn ngàn năm thăng trầm nhưng vẫn vững vàng "đi lên phía trước" – đây là niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai của dân tộc ta.
Mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước tươi đẹp là thế vậy mà tác giả lại phải nằm trong giường bệnh. Vậy nên, những khổ thơ cuối cùng của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ ấy, ông đã viết lên ước nguyện, khát vọng của mình, giản dị mà chân thành vô cùng:
"Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Một nốt trầm xao xuyến
Ta nhập vào hòa ca"
Liên tiếp ở các câu thơ, nhà thơ đã sử dụng động từ "ta làm" để biểu đạt cái khát khao tột độ đang cháy bỏng ở trong tim mình. Ông ước được làm một "con chim hót", "một cành hoa" nhỏ bé mà dâng hiến cho đời. Những vật ông ao ước trở thành đều là những vật nhỏ bé, tầm thường trong cuộc sống, thế nhưng ông lại khao khát được trở thành để được cống hiến cho cuộc đời. Ông ước mình trở thành "một nốt trầm xao xuyến" – một nốt lặng bé nhỏ giữa bản nhạc tươi vui của cuộc đời. Mong ước ấy thật nhỏ nhoi, thế nhưng lại chân thành, tha thiết biết bao nhiêu.
Thanh Hải ước được trở thành "một mùa xuân nho nhỏ" để "lặng lẽ" hòa mình vào thiên nhiên, đất nước để mà dâng hiến cho cuộc đời, cho Tổ quốc, chẳng cần hào nhoáng, chẳng cần được tôn vinh. Bất cứ ở độ tuổi nào, ông cũng muốn được cống hiến, được hi sinh hết mình cho Tổ quốc thân yêu, dù là lúc còn là một chàng thanh niên hai mươi tuổi tràn trề nhiệt huyết hay là giờ đây, khi đã là một ông già tóc bạc. Điệp từ "dù là" như một lời khẳng định mạnh mẽ ước vọng của nhà thơ.
"Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc"
Lời thơ như những lời khẳng định tình yêu tha thiết của Thanh Hải dành cho Tổ quốc, dành cho cuộc sống tươi đẹp. Bởi có yêu tha thiết quê hương, cuộc sống, ông mới khao khát cháy bỏng được cống hiến, được dâng hiến cho cuộc đời đến như thế, đặc biệt là lúc này, khi ông đang nằm trên giường bệnh. Cái khát khao ấy cháy bỏng trong tim ông, chưa lúc nào, ông thôi khao khát được cống hiến hết mình cho cuộc đời cả.
Qua những khổ thơ trên, người ta có thể thấy Thanh Hải yêu quê hương, non sông đến thế nào, đặc biệt là xứ Huế thân thương. Chắc có lẽ bởi vì thế mà khép lại bài thơ, Thanh Hải đã cất lên một khúc hát với giai điệu quen thuộc của xứ Huế:
"Mùa xuân tôi xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế"
Những điệu hò "Nam ai, Nam bình" đều là những khúc ca quen thuộc của xứ Huế. Nếu khúc Nam ai là giai điệu buồn thương, da diết thì Nam bình lại dìu dặt, trìu mến. Cả hai điệu hát đều được cất lên trên nhịp phách tiền đặc trưng của dân ca Huế. Thế mới biết, Thanh Hải gắn bó khăng khít và yêu thương xứ Huế đến nhường nào. Ông đã đặt nó vào trong tim mình, mang cả vào đó điệu hò quen thuộc của quê hương.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải được viết bằng thể thơ năm chữ quen thuộc với nhịp điệu uyển chuyển. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc đời của tác giả, đồng thời nó cũng thể hiện một khát vọng cháy bỏng mà chân thành của nhà thơ đó là được góp phần làm nên mùa xuân của đất nước.
Thanh Hải đã khéo léo sử dụng những biện pháp tu từ linh hoạt như nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, … để bộc lộ tình yêu của mình.
Viết bài thơ vào những ngày tháng cuối của cuộc đời, thế nhưng lời thơ của Thanh Hải lại không có một chút bi lụy mà thay vào đó, người ta cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, Tổ quốc, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai của đất nước cũng như khát vọng cháy bỏng của ông.
Cảm nhận khi đọc bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Thanh Hải, một nhà thơ tiêu biểu của nền văn học cách mạng miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã sống và chiến đấu gắn bó với vùng đất Thừa Thiên - Huế. Thơ ông là tiếng lòng của người dân Trị Thiên - Huế, khi thì cất lên tiếng thét căm phẫn tố cáo tội ác của kẻ thù, khi thì thủ thỉ những lời tâm tình của đồng bào và chiến sĩ, và đôi khi là lời ca ngợi tha thiết về Bác Hồ. Những tác phẩm như Mồ anh hoa nở, Núi vẫn nhớ người vẫn thương, Cháu nhớ Bác Hồ, A Vầu không chết... đã được đón nhận với nhiều cảm xúc và tình yêu thương. Thơ của ông đã được trao giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu.
Sau khi đất nước thống nhất, Thanh Hải tham gia lãnh đạo Hội văn nghệ Bình - Trị - Thiên và tiếp tục sáng tác. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ cùng nhiều tác phẩm khác của ông được đánh giá cao, phản ánh tâm hồn lạc quan và cái nhìn tươi trẻ của người Việt Nam trong thời kỳ xây dựng đất nước.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được viết vào tháng 11 năm 1980, trong bối cảnh đất nước đối mặt với nhiều khó khăn như chiến tranh biên giới và nền kinh tế bao cấp. Tuy nhiên, công cuộc kiến thiết vẫn diễn ra sôi nổi. Bài thơ đã khắc họa tâm trạng của nhân dân: vui tươi, phóng khoáng nhưng vẫn đầy trăn trở. Chính vì vậy, bài thơ nhanh chóng được yêu thích, được phổ nhạc và trở nên phổ biến.
Mùa xuân nho nhỏ mang đậm chất nhạc điệu. Thể thơ năm chữ và cách gieo vần linh hoạt đã tạo nên một bài thơ sống động, diễn tả niềm vui nhẹ nhàng, yêu đời của mùa xuân. Những hình ảnh đẹp trong bài thơ càng làm tăng thêm chất thơ và nhạc tính. Hãy đọc lại khổ thơ đầu để cảm nhận sự hòa quyện giữa nhạc và thơ:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Khổ thơ này miêu tả một không gian rộng lớn với chim hót, hoa tím, trời xanh và sông nước. Không gian ấy mang đậm chất Huế, với cách dùng từ đặc trưng như “ơi” và “chi” tạo nên sự dịu dàng, thân thương. Hình ảnh “từng giọt long lanh rơi” và động tác “hứng” thể hiện sự trân trọng của nhà thơ với vẻ đẹp thiên nhiên.
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Tiếng chim hót vô hình được hình ảnh hóa thành “từng giọt long lanh rơi”, một sáng tạo đầy cảm xúc. Động tác “hứng” không chỉ thể hiện sự trân trọng mà còn là sự đồng cảm của nhà thơ với thiên nhiên và cuộc đời.
Chất nhạc và chất thơ trong bài thơ bắt nguồn từ cuộc sống đầy gian lao nhưng vẫn hối hả tiến lên phía trước của đất nước. Dù phải đối mặt với nhiều thử thách, nhân dân vẫn không ngừng xây dựng và phát triển.
Một điểm đặc sắc khác của bài thơ là cách diễn tả nhân vật trữ tình một cách tự nhiên và biến đổi linh hoạt. Nhân vật trữ tình xuất hiện như một thi nhân hòa mình vào thiên nhiên, với tiếng “tôi” dịu dàng và khiêm nhường:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Theo dòng cảm xúc, nhân vật trữ tình chuyển từ mùa xuân của thiên nhiên sang mùa xuân của cách mạng và đất nước:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
….
Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Ở đây, “ta” không chỉ là nhà thơ mà còn là đại diện cho mọi người. Sự chuyển đổi này diễn ra một cách tự nhiên, không gượng ép. Bài thơ mang đến cảm giác hào hứng, sảng khoái và khiêm tốn, như một lời nhắn nhủ về sự đóng góp nhỏ bé nhưng ý nghĩa của mỗi cá nhân trong cuộc sống.
Ở hai khổ thơ cuối, mùa xuân không còn là mùa xuân của thiên nhiên mà trở thành mùa xuân của lí tưởng, của những khát vọng cao cả. Đó là tiếng lòng của con người muốn cống hiến trọn vẹn sức lực cho cách mạng và đất nước, bất chấp tuổi tác, coi đó là niềm an ủi và lẽ sống. Nhân vật trữ tình giờ đây không còn bó hẹp trong “tôi” hay “ta” mà đã hóa thân thành:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Hành động “lặng lẽ dâng cho đời” không còn là của riêng ai, mà trở thành khát vọng chung của cả một thế hệ, của tôi, của bạn, và của tất cả chúng ta. Sự chuyển đổi tinh tế này của nhân vật trữ tình đã mang đến cho hai khổ thơ cuối một sức khái quát lớn, đậm chất triết lí, dù được diễn đạt bằng giọng thơ nhẹ nhàng, khiêm tốn.
Mùa xuân nho nhỏ là một bài thơ xuất sắc, bởi nó không chỉ thể hiện những tình cảm sâu sắc của tác giả mà còn phản ánh những xúc động lớn lao của cả một thời đại.
Cảm nhận và suy ngẫm của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Mỗi độ xuân về, chúng ta không thể quên Thanh Hải với tác phẩm "Mùa xuân nho nhỏ", một bài thơ xuân đẹp đẽ, đậm đà tình nghĩa, góp phần làm phong phú thêm kho tàng thơ ca dân tộc. Bài thơ được viết năm 1980, khi tác giả đang nằm trên giường bệnh, được xem như lời tâm niệm chân thành trước lúc ra đi. "Mùa xuân nho nhỏ" của ông đã thể hiện lẽ sống và ý nghĩa cuộc đời con người bằng cảm xúc chân thật, với giọng thơ nhẹ nhàng, tâm tình.
Bài thơ mở đầu bằng cảm xúc hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên, từ đó mở rộng thành hình ảnh mùa xuân của đất nước. Từ mạch cảm xúc ấy, nhà thơ bộc lộ ước nguyện được trở thành một "mùa xuân nho nhỏ" góp vào mùa xuân lớn của dân tộc. Kết thúc bài thơ là niềm tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
Bằng những hình ảnh chọn lọc, tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa xuân với dòng sông xanh, bông hoa tím biếc và tiếng chim chiền chiện:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Bức tranh xuân tràn đầy sức sống được thể hiện qua nghệ thuật đảo ngữ. Động từ "mọc" đặt ở đầu khổ thơ tạo ấn tượng mạnh mẽ, như bông hoa tím đang từ từ vươn lên giữa dòng sông xanh. Qua vài nét phác họa, tác giả đã khắc họa không gian mênh mông với gam màu xanh - tím đặc trưng của xứ Huế.
Trong không gian ấy, tiếng chim chiền chiện hót vang trên bầu trời xuân làm cho cảnh vật trở nên rộn ràng, ấm áp. Nhà thơ trực tiếp bộc lộ cảm xúc một cách mãnh liệt:
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác, từ thính giác (nghe tiếng chim) sang thị giác (thấy tiếng chim đọng thành giọt long lanh) và xúc giác (đưa tay hứng), tác giả đã tạo nên hình ảnh độc đáo, thể hiện cảm xúc say đắm trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
Từ mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước với hình ảnh "người cầm súng" và "người ra đồng":
"Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ"
Bằng cấu trúc song hành, tác giả khắc họa hai nhiệm vụ chiến lược của nhân dân: sản xuất và chiến đấu. "Lộc" tượng trưng cho sức sống mùa xuân và sự phát triển của đất nước. Người lính mang trên lưng vòng lá ngụy trang, mang theo sức mạnh dân tộc để bảo vệ Tổ quốc. Người nông dân đổ mồ hôi và sức lao động để làm nên màu xanh bát ngát của quê hương. Ý thơ sâu sắc, khẳng định rằng máu và mồ hôi của nhân dân đã góp phần tô điểm và giữ gìn mùa xuân đất nước.
Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương, náo nhiệt:
"Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao"
"Hối hả" thể hiện sự vội vã, khẩn trương, còn "xôn xao" là niềm vui dâng trào. Cặp từ láy "hối hả", "xôn xao" cùng điệp ngữ "Mùa xuân", "Lộc", "Tất cả như..." tạo nên nhịp điệu vui tươi, mạnh mẽ, như một hành khúc vào xuân của thời đại mới.
Tiếp theo là những câu thơ nói lên những suy tư về đất nước và nhân dân:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Chặng đường lịch sử bốn nghìn năm của đất nước đầy những thử thách "vất vả và gian lao". Nhân dân, qua bao thế hệ, đã đổ mồ hôi và xương máu để bảo vệ và xây dựng đất nước. Hình ảnh "Đất nước như vì sao" là một so sánh đẹp đẽ, thể hiện niềm tự hào và khẳng định niềm tin vào sự phát triển không ngừng của dân tộc. Ba tiếng "cứ đi lên" thể hiện ý chí kiên cường, quyết tâm và niềm tin sắt đá vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Sau những suy tư về đất nước, nhà thơ bày tỏ tâm niệm của mình. Tác giả nguyện cầu được hóa thân:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ xưng "tôi" (Tôi đưa tay tôi hứng), thì ở đây, ông chuyển sang xưng "ta". Đây không phải là sự ngẫu nhiên. "Ta" vừa là số ít, vừa là số nhiều, giúp tác giả diễn tả được cái riêng và cái chung. Đây là quan niệm sống và cống hiến của tác giả, cũng là của tất cả chúng ta.
Nhà thơ khát khao được làm một "con chim hót", một "cành hoa", và thêm vào đó là "một nốt trầm". Từ hình ảnh mùa xuân thiên nhiên được miêu tả ở phần đầu, tác giả đã chọn những hình ảnh này để thể hiện lẽ sống của mình: phục vụ và cống hiến cho đất nước. Cách chọn hình ảnh này vừa tự nhiên, vừa hợp lý, làm cho các phần của bài thơ gắn kết với nhau một cách hài hòa. Con chim và cành hoa tuy nhỏ bé nhưng đều cống hiến tiếng hót và hương sắc cho đời. Nhà thơ mong muốn được sống có ích, khiêm tốn và âm thầm góp phần vào sự phát triển của đất nước.
Điệp ngữ "ta làm" được lặp lại một cách thiết tha, như lời ca ngân vang. Sống là phải cống hiến, dù chỉ là những điều nhỏ bé.
Khổ thơ tiếp theo làm rõ hơn ý nghĩa của nhan đề bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ":
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Nhà thơ tâm niệm làm "Một mùa xuân nho nhỏ" lặng lẽ dâng hiến cho mùa xuân lớn của đất nước. Làm một mùa xuân nghĩa là sống một cuộc đời đẹp như mùa xuân. Nhưng tại sao lại là "mùa xuân nho nhỏ"? Đây là một khát vọng khiêm tốn, thể hiện ý thức đúng đắn về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Mỗi cá nhân có thể đóng góp mùa xuân của riêng mình vào mùa xuân chung của đất nước, làm cho nó thêm phong phú và rực rỡ.
Ai cũng phải sống có ích cho đời. "Mùa xuân nho nhỏ" là một ẩn dụ sáng tạo, khắc sâu ý tưởng "Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta" (Nguyễn Khoa Điềm). Bởi lẽ, "Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình" (Tố Hữu). Thanh Hải đã sống và cống hiến hết mình cho đất nước, từ khi còn trẻ cho đến khi tóc bạc. Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" được ông viết trên giường bệnh, một tháng trước khi qua đời, là lời tâm huyết cuối cùng của ông.
Thanh Hải sử dụng điệp ngữ một cách tài tình: "Ta làm...ta làm...ta nhập..." và "Dù là...dù là...", tạo nên âm điệu tha thiết, sâu lắng. Người đọc không khỏi xúc động trước giọng thơ trữ tình, ấm áp này. Có thể xem đoạn thơ này như những lời trăng trối của ông.
Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương: Phải chăng nhà thơ vừa làm thơ vừa hát những câu thơ của mình, theo làn điệu dân ca trầm buồn nhưng lạc quan của quê hương xứ Huế. Nhịp thơ năm chữ, gieo vần hai câu một, nhưng ở khổ này dôi ra một câu vần bằng, tạo cảm giác chậm rãi, suy tư:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
"Nước non ngàn dặm" - những câu mở đầu của bài ca Nam ai xứ Huế đã hòa quyện một cách tự nhiên vào bài thơ. Nhưng "nước non ngàn dặm mình" rồi lại "nước non ngàn dặm tình" thể hiện tình yêu sâu đậm của tác giả dành cho quê hương, đất nước. Nước non ngàn dặm không chỉ là không gian địa lý mà còn là tình yêu thiết tha, gắn bó với quê hương, với đất nước.
"Mùa xuân nho nhỏ" là một sáng tạo độc đáo của Thanh Hải, góp phần làm phong phú thêm hình ảnh mùa xuân trong thơ ca. Từ xưa đến nay, các nhà thơ đã khai thác mùa xuân từ hai góc độ: mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của con người. Thanh Hải cũng không ngoại lệ, nhưng điểm đặc sắc của ông chính là hình ảnh "Mùa xuân nho nhỏ". Đó là biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của cuộc sống và cuộc đời mỗi người. "Mùa xuân nho nhỏ" ấy góp phần làm nên mùa xuân lớn của đất nước, thể hiện sự hòa hợp giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng. Mỗi chúng ta hãy sống đẹp, hãy trở thành một "mùa xuân nho nhỏ" trong mùa xuân lớn của dân tộc.
Cảm nghĩ Mùa xuân nho nhỏ hay nhất
Thanh Hải, sinh năm 1930 tại Thanh Điền, Thừa Thiên Huế, xuất thân từ một gia đình tri thức nghèo. Từ nhỏ, ông đã gắn bó với cuộc sống của người nông dân, từ đó nuôi dưỡng tình yêu sâu sắc với quê hương, đất nước. Là một nhà thơ hiện đại của văn học Việt Nam, ông để lại dấu ấn qua những tác phẩm nhẹ nhàng nhưng đầy ý nghĩa, thể hiện khát vọng lớn lao. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm "Những đồng chí trung kiên", "Ánh mắt", và tập thơ "Huế mùa xuân". Đặc biệt, bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" được viết trong những ngày cuối đời trên giường bệnh, không chỉ đẹp về ngôn từ mà còn mang thông điệp tích cực về cuộc sống:
"Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời"
Bức tranh mùa xuân trên đất Huế hiện lên thật tươi đẹp và đầy tình cảm. Dòng sông Hương Giang êm đềm, trong trẻo, điểm xuyết bởi bông hoa lục bình tím biếc đang khoe sắc. Động từ "mọc" đặt ở đầu câu thể hiện sức sống mãnh liệt của thiên nhiên. Nhành lục bình nhỏ bé nhưng kiên cường vươn lên giữa dòng nước, tô điểm cho không gian mùa xuân thêm phần thơ mộng. Màu tím của hoa hòa quyện với màu xanh của dòng sông, tạo nên vẻ đẹp hài hòa, quyến rũ. Mùa xuân Huế không chỉ có sắc màu mà còn mang âm thanh rộn ràng, tiếng chim chiền chiện hót vang như lời chào đón xuân về.
Xuân trên đất Huế không chỉ đẹp bởi sắc màu mà còn bởi những âm thanh gần gũi, mê hoặc. Tiếng hót trong trẻo của chim chiền chiện vang lên giữa không gian yên bình, mang đến niềm vui cho vạn vật. Những từ ngữ như "chi", "ơi" nghe thật ngọt ngào, thân thương, thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả với quê hương.
"Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"
Hình ảnh "từng giọt long lanh rơi" gợi nhiều liên tưởng thú vị. Đó có thể là giọt mưa xuân, giọt sương đêm, hay thậm chí là âm thanh của chim chiền chiện. Dù là gì, những giọt ấy đều được nhà thơ trân trọng, nâng niu bằng cả trái tim. Dù đang nằm trên giường bệnh, sức sống của mùa xuân vẫn khiến tác giả háo hức, hòa mình vào vẻ đẹp của thiên nhiên và không khí ngọt ngào của mùa xuân xứ Huế.
Bước sang khổ thơ thứ hai, ta được chiêm ngưỡng bức tranh sinh hoạt và chiến đấu của con người trong những ngày xuân tươi đẹp.
"Mùa xuân người cầm súng
Lộc trải đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương lúa
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao"
Đất nước ta đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử đầy gian khổ, từ chiến đấu giành độc lập đến xây dựng cuộc sống mới. Thanh Hải đã chọn những hình ảnh tiêu biểu để thể hiện sự hy sinh và nỗ lực của dân tộc. "Mùa xuân người cầm súng" là hình ảnh của những người lính kiên cường, mang trên vai trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc. "Mùa xuân người ra đồng" là hình ảnh của người nông dân chăm chỉ, một nắng hai sương để tăng gia sản xuất. "Lộc" xuân không chỉ là lộc non của cây cối mà còn là thành quả của chiến đấu và lao động.
Các từ "hối hả", "xôn xao" làm nổi bật không khí thi đua sôi nổi, thúc giục mọi người cùng nhau lao động và xây dựng đất nước.
Trong khí thế sục sôi ấy, tác giả không khỏi tự hào và xúc động khi nghĩ về những gian khổ để làm nên đất nước ngày nay. Hơn thế nữa, ông còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của dân tộc:
"Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước"
Trong đoạn thơ này, ta như thấy được sự đồng điệu giữa Thanh Hải và Nguyễn Đình Thi khi cùng dựng lên hình tượng đất nước kiên cường, bất khuất:
"Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!"
Từ niềm say đắm và tự hào ấy, nhà thơ cũng muốn góp chút sức nhỏ bé của mình vào dựng xây đời, góp mùa xuân của đời mình vào tô điểm mùa xuân dân tộc:
" Ta làm con chim hót
...
Dù là tuổi đôi mươi
Dù là khi tóc bạc"
Tiếng "ta" cất lên cũng là lúc nhà thơ nói hộ tấm lòng của những con người đất Việt. Ai ai cũng muốn đóng góp sức mình cho sự phát triển chung. Có thể là cành hoa nhỏ bé, có thể là một nàng chim xanh, cũng có thể là một nốt trầm lặng trong khúc ca cuộc đời. Dù là ai, dù làm gì thì cũng đều phải sống một cuộc đời ý nghĩa để mang đến cho cộng đồng, cho dân tộc những điều tốt đẹp mà mình có thể làm. Ước nguyện thật chân thành, ý nguyện thật lớn lao. Phải chăng nhà thơ Thanh Hải cũng như chàng thanh niên trẻ trên đỉnh núi Sa Pa trong tác phẩm của Nguyễn Thành Long, cống hiến tuổi xuân xanh thầm lặng để làm việc giúp ích cho chiến đấu, giúp ích cho cuộc đời. Dù đã sắp lìa xa cõi đời mà nhà thơ vẫn không ngừng khát khao được cống hiến thì có gì khi còn trẻ mà chúng ta lại chần chừ do dự. Hãy sống một cuộc đời như chưa từng sống:
"Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc"
Bài thơ khép lại bằng câu thơ tựa như lời hát nhẹ nhàng:
"Mùa xuân ta xin hát
Câu Nằm ai Nắm bình
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế"
Mùa xuân ta xin dâng cho đời lời ca tiếng hát, lời hát mang tâm tình của một người con thủy chung gắn bó với cội nguồn xứ Huế. Nơi đất Việt, đâu cũng là nhà, chốn đất Việt, ta nặng lòng son sắt với Huế.
Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" được viết nên bởi một ngòi bút đầy tài năng. Hình ảnh quen thuộc, bình dị, tứ thơ nhẹ nhàng, chân thành, ngôn ngữ trong sáng, đậm chất Huế,... tất cả góp phần làm nên một tác phẩm xuất sắc góp vào thành tựu của thơ văn nước nhà.
Tư liệu liên hệ, mở rộng "Mùa xuân nho nhỏ"
1. Liên hệ hình ảnh bức tranh thiên nhiên mùa xuân:
“Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao, lá ở cành
Lúa ở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng anh”
(“Mùa xuân chín” – Nguyễn Bính)
2. Khi phân tích hình ảnh bông hoa tím biếc, chúng ta có thể liên hệ đến thi phẩm “Trở về quê nội” của Lê Anh Xuân:
“Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn con đây nước chẳng đôi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông”
3. Liên hệ với tiếng chim chiền chiện:
“Con chim chiền chiện
Bay vút, vút cao
Lòng đầy yêu mến
Khúc hát ngọt ngào”
(“Con chim chiền chiện” – Huy Cận)
4. Liên hệ quan niệm sống đẹp của tác giả Thanh Hải với nhân vật vô danh trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long hay trong lời của bài hát “Tự nguyện” của Trương Quốc Khánh:
“Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây tôi sẽ là một vầng mây ấm
Là người tôi sẽ chết cho quê hương”
5. Trong thơ Tố Hữu, ta cũng dễ dàng thấy được quan niệm sống đẹp đẽ này:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
6. Liên hệ khát vọng cống hiến thầm lặng của tác giả:
“Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”
(“Dáng đứng Việt Nam” – Lê Anh Xuân)
7. Liên hệ hình ảnh: “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”:
“Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
(“Đất nước” – Nguyễn Đình Thi)
Những nhận định hay về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
1. Bài thơ không chỉ hay về ý tứ mà còn đặc sắc về nhạc điệu. Với câu thơ 5 tiếng, nhịp thơ linh hoạt 3/2 xen kẽ 2/3, tạo nên sự uyển chuyển, nhịp nhàng. Nhà thơ còn khéo léo sử dụng vần trắc ở cuối mỗi khổ thơ, tạo nên âm vang giòn giã, tựa như nhịp phách tiền. Điều này thể hiện rõ ở các câu cuối của khổ thứ nhất, thứ ba, thứ tư, thứ năm và thứ sáu.
(Trần Đình Sử, Đọc văn học văn)
2.
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Khái quát về đất nước Việt Nam với những gian lao, vất vả nhưng vẫn ngời sáng là điểm chung trong thơ của nhiều tác giả. Nguyễn Đình Thi từng viết: “Anh yêu em như yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”. Thế nhưng, cách diễn đạt giản dị, hình ảnh quen thuộc trong thơ Thanh Hải vẫn chạm đến phần thiêng liêng trong tâm hồn mỗi người – tình yêu Tổ quốc.
(Lê Khánh Mai)
3. “Mùa xuân nho nhỏ” là một trong những bài thơ xuân tiêu biểu của thơ ca Việt Nam, được Thanh Hải viết trên giường bệnh, chỉ vài ngày trước khi ông qua đời. Đây là lời tự bạch chân thành, thể hiện tâm niệm sâu sắc về lẽ sống và sứ mệnh của thi ca.
4. Bài thơ thể hiện tình yêu cuộc sống mãnh liệt và khát vọng cống hiến chân thành, tha thiết của nhà thơ Thanh Hải.
5. Bức tranh mùa xuân của thiên nhiên và đất nước được khắc họa qua những chi tiết tiêu biểu, kết hợp hài hòa giữa màu sắc và âm thanh, tạo nên một không gian sống động và tràn đầy sức sống.
........
> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại
- Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận sâu sắc khổ thơ 4, 5 trong bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải - 4 Dàn ý & 22 bài văn mẫu chọn lọc
- Văn mẫu lớp 8: Cảm nhận về tác phẩm Ca Huế trên sông Hương - Dàn ý chi tiết & 5 bài văn mẫu đặc sắc
- Văn mẫu lớp 8: Hướng dẫn viết văn thuyết minh giải thích hiện tượng tự nhiên - Kèm dàn ý và 10 bài văn mẫu đặc sắc
- Văn mẫu lớp 8: Cảm nhận sâu sắc về tác phẩm Ca Huế trên sông Hương (11 bài mẫu chọn lọc) - Những bài văn mẫu lớp 8 đặc sắc
- Văn mẫu lớp 8: Đoạn văn cảm nhận về nhan đề hoặc hình ảnh đặc sắc trong Thiên Trường vãn vọng - Tuyển chọn 6 bài văn mẫu hay nhất