Văn mẫu lớp 8: Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong tác phẩm 'Quang Trung đại phá quân Thanh' - 2 Dàn ý chi tiết & 16 bài văn mẫu xuất sắc (Kèm sơ đồ tư duy)
Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong 'Quang Trung đại phá quân Thanh' là nguồn tài liệu tham khảo chất lượng, giúp học sinh nắm vững kiến thức và đạt kết quả cao.

Nội dung bao gồm 2 dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy trực quan và 16 bài văn mẫu lớp 8. Hãy khám phá ngay những phân tích sâu sắc và đầy cảm hứng dưới đây.
Sơ đồ tư duy phân tích hình tượng vua Quang Trung - công cụ hỗ trợ học tập hiệu quả và sáng tạo.

Dàn ý phân tích hình tượng vua Quang Trung - vị anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam.
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát về hình ảnh vua Quang Trung trong đoạn trích 'Quang Trung đại phá quân Thanh', một nhân vật lịch sử đầy uy dũng và trí tuệ.
2. Thân bài
- Con người hành động mạnh mẽ, quyết liệt:
- Chỉ trong vòng một tháng khi quân Thanh chiếm kinh thành Thăng Long, Quang Trung đã chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tiến quân ra Bắc.
- Tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế và đổi niên hiệu là Quang Trung.
- Sau khi lên ngôi, ông lập tức đốc suất đại binh, cả thủy lẫn bộ, cùng tiến quân ra Bắc.
- Cho tuyển mộ quân lính ở Nghệ An, mở cuộc duyệt binh lớn và tổ chức lại hàng ngũ đội quân.
- Đích thân cưỡi voi ra doanh yên ủi quân lính…
- Là người có trí tuệ sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng:
- Nhận định được tình hình của ta và địch, đưa ra những quyết định quan trọng.
- Sáng suốt và nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người. Ông biết khen chê đúng người đúng việc.
- Bình tĩnh, quyết đoán: “Khi nghe tin quân Thanh đã vào Thăng Long, ông không hề lo lắng”. “Ở Tam Điệp, Quang Trung phỏng đoán chính xác tình hình và đánh giá đúng chính sách của Ngô Thì Nhậm”.
- Có ý chí kiên cường, biết trọng nhân tài và tài dùng binh như thần:
- Trước khi xuất quân, tính toán mọi sách lược và tin chắc vào thắng lợi chỉ trong vòng mười ngày, hẹn với quân sĩ ngày mồng 7 năm mới thì vào Thăng Long mời tiệc ăn mừng.
- “Ở Tam Điệp, Quang Trung phỏng đoán chính xác tình hình và đánh giá đúng sách lược của Ngô Thì Nhậm”.
- Trong trận chiến: Quang Trung liên tiếp điều binh, khiển tướng và sử dụng những sách lược đã chuẩn bị trước để đánh bại quân Thanh.
=> Như vậy, hình ảnh Quang Trung hiện lên trong 'Hoàng Lê nhất thống chí' là một vị anh hùng dũng cảm, mưu lược, biết thu phục lòng người và trở thành linh hồn của trận chiến.
3. Kết bài
Khẳng định vẻ đẹp của vua Quang Trung trong 'Hoàng Lê nhất thống chí', một biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước và tài năng quân sự.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - vị anh hùng dân tộc với tài thao lược và lòng yêu nước sâu sắc.
Mẫu số 1
Trong đoạn trích 'Quang Trung đại phá quân Thanh', hình tượng vua Quang Trung hiện lên như một người anh hùng dân tộc với những phẩm chất phi thường. Tác giả đã khắc họa nhân vật này qua những hành động mạnh mẽ và quyết liệt. Chỉ trong vòng một tháng sau khi quân Thanh chiếm kinh thành Thăng Long, Quang Trung đã chuẩn bị kỹ lưỡng mọi mặt cho cuộc tiến quân ra Bắc. Ông tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Quang Trung, rồi tự mình đốc suất đại binh, cả thủy lẫn bộ, tiến quân ra Bắc. Ông tuyển mộ quân lính ở Nghệ An, tổ chức duyệt binh lớn, sắp xếp lại hàng ngũ và đích thân cưỡi voi ra doanh yên ủi quân sĩ. Không chỉ vậy, Quang Trung còn là người có trí tuệ sáng suốt và tầm nhìn xa trông rộng. Ông nhanh chóng nhận định tình hình, đưa ra quyết định chính xác và biết cách dùng người tài. Dù trong tình thế nguy cấp, ông vẫn giữ được sự bình tĩnh và quyết đoán: “Khi nghe tin quân Thanh đã vào Thăng Long, ông không hề lo lắng”. Trước khi xuất quân, Quang Trung đã tính toán kỹ lưỡng mọi sách lược, tin chắc vào thắng lợi chỉ trong vòng mười ngày và hẹn với quân sĩ ngày mồng 7 năm mới sẽ vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Điều này thể hiện sự tự tin, tâm lý vững vàng và tinh thần chủ động của một nhà lãnh đạo tài ba. Trong trận chiến, ông liên tiếp điều binh, khiển tướng và áp dụng những chiến lược đã chuẩn bị sẵn để đánh bại quân Thanh một cách thần tốc. Vua Quang Trung chính là linh hồn của trận chiến, được khắc họa qua ngòi bút khách quan và chân thực, mang vẻ đẹp của một người anh hùng dân tộc.
Mẫu số 2
"Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước, xiết bao công trình"
Những vần thơ trên được Ngọc Hân Công chúa viết để ca ngợi người anh hùng Nguyễn Huệ. Hình ảnh vua Quang Trung oai phong, lẫm liệt đã được các tác giả Ngô gia văn phái tái hiện chân thực qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh trong hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất thống chí”.
Quang Trung hiện lên là một con người hành động mạnh mẽ và quyết đoán. Ngay từ đầu tác phẩm, ông đã thể hiện sự xông xáo, nhanh nhẹn và có chủ đích rõ ràng. Khi nghe tin giặc đã chiếm đóng Thăng Long, mất cả một vùng đất rộng lớn, ông không hề nao núng mà quyết định thân chinh cầm quân đi ngay. Trong vòng một tháng, Nguyễn Huệ đã hoàn thành nhiều việc lớn như tế cáo trời đất, lên ngôi vua, và hành quân đánh giặc. Chỉ vừa khởi binh, ông đã tự tin hẹn ngày mừng chiến thắng.
Không chỉ vậy, Quang Trung còn hiện lên với vẻ đẹp của trí tuệ. Ông vừa sáng suốt, vừa nhạy bén. Khi quân Thanh xâm lược, đặt đất nước vào tình thế nguy cấp, ông đã quyết định lên ngôi hoàng đế và đặt niên hiệu là Quang Trung. Việc lên ngôi được ông tính toán kỹ lưỡng nhằm tập hợp lực lượng, thu phục nhân tài và quan trọng hơn là “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, nhận được sự ủng hộ của dân chúng.
Qua lời dụ tướng sĩ trước khi xuất quân ở Nghệ An, Quang Trung đã chỉ rõ: “Đất nào sao ấy”, người phương Bắc không cùng nòi giống với ta, bụng dạ ắt khác. Ông còn vạch rõ tội ác của chúng đối với nhân dân ta: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã nhiều lần cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, khiến người dân không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”. Nhờ sự sáng suốt trong nhận định tình hình, Quang Trung đã khích lệ tướng sĩ bằng những tấm gương chiến đấu dũng cảm từ ngàn xưa như Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành,... Lời dụ của Quang Trung đã thuyết phục được nhiều người tài. Ông còn dự liệu việc Lê Chiêu Thống về nước có thể gây chia rẽ nên đã nghiêm khắc cảnh báo: “Các người đều là những người có lương tri, hãy cùng ta đồng tâm hiệp lực để lập nên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.
Những sự kiện xảy ra ở triều đình cũng không nằm ngoài dự liệu của Quang Trung. Trong cuộc hội quân ở Tam Điệp, ông hiểu rõ việc rút quân của hai tướng Sở và Lân. Do quân ta còn ít, không địch nổi quân Thanh hùng mạnh, nên họ buộc phải rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Nhờ vậy, Sở và Lân không bị trừng phạt mà còn được khen ngợi. Quang Trung còn đánh giá cao Ngô Thì Nhậm và sử dụng ông như một quân sư đa mưu túc trí, giao cho Nhậm làm việc cùng Sở và Lân.
Quang Trung còn là người có tầm nhìn xa trông rộng. Dù mới khởi binh, chưa giành được tấc đất nào, nhưng ông vẫn tự tin như đinh đóng cột. Ông không chỉ lên kế hoạch chiến đấu mà còn tính toán cả kế hoạch ngoại giao. Cuộc hành quân thần tốc dưới sự chỉ huy của Quang Trung khiến người đời kinh ngạc khi vừa hành quân, vừa đánh giặc, thậm chí vượt mức kế hoạch hai ngày. Dù hành quân xa xôi, liên tục, nhưng nhờ kỷ luật nghiêm minh, đội quân vẫn chỉnh tề, không ngừng tiến lên.
Vua Quang Trung còn hiện lên với những hành động quyết liệt và mạnh mẽ trong chiến trận. Ông thân chinh cầm quân không chỉ trên danh nghĩa mà thực sự là một tổng chỉ huy chiến dịch. Dưới sự lãnh đạo tài tình của ông, nghĩa quân Tây Sơn đã có những trận đánh xuất sắc, áp đảo kẻ thù. Trong cảnh khói lửa mù trời, hình ảnh nhà vua cưỡi voi, áo bào sạm đen khói súng, hiện lên sáng ngời giữa trận mạc, như một biểu tượng của sự dũng cảm và quyết tâm.
Đoạn trích khắc họa sinh động hình tượng vua Quang Trung qua ngôn ngữ, hành động và cử chỉ dứt khoát. Bối cảnh chiến trường hùng tráng trở thành phông nền hoàn hảo để người anh hùng xuất hiện. Tác giả sử dụng ngôi kể thứ ba, tăng tính chân thực và khách quan cho câu chuyện.
Các tác giả Ngô gia văn phái với ngòi bút tài hoa đã làm nổi bật hình ảnh vua Quang Trung - niềm tự hào của dân tộc, tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của đất nước. Người anh hùng Nguyễn Huệ đã trở thành biểu tượng cho truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung siêu hay
Ngô Gia Văn Phái là nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, quê ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” được viết bằng chữ Hán, ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê khi Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Không chỉ dừng lại ở đó, tác phẩm còn tiếp tục phản ánh giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và những năm đầu thế kỷ XIX. Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ qua chiến công đại phá quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
Trước hết, Nguyễn Huệ hiện lên là một con người hành động mạnh mẽ và quyết đoán. Từ đầu đến cuối đoạn trích, ông luôn thể hiện sự xông xáo, nhanh nhẹn, có chủ đích rõ ràng và quyết liệt. Khi nghe tin giặc chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất rộng, ông không hề nao núng mà quyết định “thân chinh cầm quân đi ngay”. Chỉ trong vòng một tháng, Nguyễn Huệ đã hoàn thành nhiều việc lớn: “tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “đốc suất đại binh” ra Bắc, gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính, mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, lên kế hoạch hành quân, đánh giặc và đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
Hơn thế nữa, ông còn sở hữu trí tuệ sáng suốt và nhạy bén. Sự sáng suốt thể hiện qua việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An, vua Quang Trung khẳng định chủ quyền dân tộc và lên án hành động xâm lược phi nghĩa của quân giặc. Lời phủ dụ nhắc lại truyền thống đánh giặc anh hùng của ông cha, kêu gọi quân lính đồng tâm hiệp lực, đồng thời đưa ra kỷ luật nghiêm minh. Lời phủ dụ như một bài hịch ngắn gọn nhưng ý tứ sâu xa, kích thích lòng yêu nước và tinh thần quật cường của dân tộc. Sự nhạy bén còn thể hiện qua cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân mang gươm trên lưng chịu tội. Ông hiểu rõ sở trường, sở đoản của từng người, khen chê đúng mực.
Cùng với ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng, Quang Trung đã làm nên trang sử hào hùng cho dân tộc. Dù mới khởi binh, chưa giành lại được tấc đất nào, nhưng ông đã tự tin khẳng định: “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, đồng thời lên kế hoạch ngoại giao sau chiến thắng để dẹp yên binh đao, giữ yên đất nước. Là một vị tướng tài ba, Nguyễn Huệ thể hiện tài dùng binh như thần. Cuộc hành quân thần tốc dưới sự chỉ huy của ông khiến hậu thế kinh ngạc. Ngày 25 tháng Chạp xuất binh từ Phú Xuân (Huế), chỉ một tuần sau đã ra tận Tam Điệp cách Huế 500km. Đến đêm 30 tháng Chạp, vừa hành quân vừa đánh giặc, ông hoạch định mùng 7 tháng Giêng sẽ vào Thăng Long ăn Tết, nhưng thực tế đã vượt mức hai ngày. Dù hành quân xa và gian khổ, quân lính vẫn chỉnh tề, răm rắp nghe lệnh.
Hình ảnh Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận. Hoàng đế Quang Trung không chỉ thân chinh cầm quân trên danh nghĩa mà còn là một tổng chỉ huy thực thụ. Ông hoạch định chiến lược, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tiến công, cưỡi voi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế. Đội quân của ông không phải là đội quân thiện chiến, lại vừa trải qua hành quân cấp tốc, nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình, họ đã đánh những trận thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống quân do thám ở Phú Xuyên, giữ bí mật tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi…). Trận Ngọc Hồi làm nổi bật tài trí và phong thái lẫm liệt của vua Quang Trung (khói tỏa mù trời, chỉ thấy hình ảnh ông nổi bật, áo bào đỏ sạm đen khói súng).
Chiến thắng Đống Đa năm Kỷ Dậu (1789) là trang sử chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Nó thể hiện sức mạnh vô địch của lòng yêu nước và tinh thần quyết chiến quyết thắng. Chiến thắng này đã dựng nên tượng đài tráng lệ về người anh hùng áo vải – vua Quang Trung, khiến dân tộc ta đời đời tự hào và ngưỡng mộ:
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.
(Ai tư vãn – Ngọc Hân công chúa)
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - vị anh hùng dân tộc với tài thao lược và lòng yêu nước sâu sắc.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 1
Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải đất Tây Sơn, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Với thiên tài quân sự, ông đã đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, khiến bọn bán nước cầu vinh phải ê chề nhục nhã. Hồi thứ mười bốn trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái đã khắc họa chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ một cách chân thực và đầy đủ. Càng đọc, ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của vị anh hùng này.
Chân dung Nguyễn Huệ được miêu tả gián tiếp qua lời kể của một cung nhân hầu hạ trong cung. Dù vẫn gọi Nguyễn Huệ là “giặc” và dùng từ “hắn”, nhưng người cung nhân không giấu được sự thán phục trước tài năng của ông. Trong lời tâu, cung nhân nói: “Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn...”. Dù lời lẽ có phần dè dặt, nhưng sự thán phục của cung nhân đã phần nào cho thấy tài năng vượt trội của Nguyễn Huệ.
Ngay cả nhóm Ngô gia văn phái, vốn theo “chính thống” và bị quan điểm này chi phối, cũng phải công nhận và ca ngợi Nguyễn Huệ một cách khách quan. Qua việc miêu tả cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã làm nổi bật tài năng quân sự của Nguyễn Huệ. Khi nghe tin quân Thanh chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ giận dữ, định cầm quân đi ngay. Tuy nhiên, ông đã biết lắng nghe lời khuyên, cho đắp đàn tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung trước khi xuất quân. Điều này cho thấy ông không chỉ tài năng mà còn biết tôn trọng ý kiến người khác.
Phẩm chất đáng quý của Nguyễn Huệ còn thể hiện qua việc ông tự mình đốc suất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng dịp Tết Nguyên đán. Đây là thời điểm kẻ thù ít cảnh giác nhất, chứng tỏ tài năng quân sự và sự am hiểu tâm lý địch của ông. Nguyễn Huệ không chỉ giỏi cầm quân mà còn có tài hùng biện. Trong lời dụ tướng sĩ, ông đã khích lệ lòng yêu nước, căm thù giặc và truyền thống chống ngoại xâm: “Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa?... Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi...”. Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn.
Một điểm đáng khâm phục khác của Nguyễn Huệ là tài dùng người. Tiêu biểu là việc ông cài Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình: “Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn”, “bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng”. Điều này cho thấy sự sáng suốt và tầm nhìn xa của Nguyễn Huệ.
Nguyễn Huệ còn là người có khả năng dự đoán chính xác các sự việc sắp xảy ra. Ông tự tin khẳng định: “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh”. Tuy nhiên, ông cũng luôn đề phòng hậu họa: “Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt”. Ông đã dự định chọn người “khéo lời lẽ” để “dẹp việc binh đao”, và đó chính là Ngô Thời Nhậm. Qua cách nghĩ của Quang Trung, ta thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân, không muốn dân phải chịu cảnh binh đao triền miên.
Đoạn thuật lại việc Quang Trung đại phá quân Thanh trong “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái đã khắc họa sinh động chân dung người anh hùng áo vải. Qua đó, người đọc thấy rõ Nguyễn Huệ không chỉ là nhà quân sự thiên tài “xuất quỷ, nhập thần” mà còn là vị tướng giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những kẻ bán nước hèn nhát, và mãi mãi được người đời kính phục, yêu mến.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 2
Quang Trung – Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự, một vị anh hùng dân tộc kiệt xuất. Hình ảnh vua Quang Trung tiêu biểu cho tinh thần quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 39 tuổi xuân, Quang Trung đã có 22 năm đánh Nam dẹp Bắc, tạo cơ sở cho quá trình thống nhất đất nước; đuổi Xiêm diệt Thanh, góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập nước nhà. Mỗi chiến công trong cuộc đời Quang Trung đánh dấu một mốc son trong lịch sử hào hùng của dân tộc.
Nói đến vua Quang Trung, trước hết phải nhắc đến một con người có tính cách mạnh mẽ, quyết đoán trong mọi hành động. Khi nghe tin giặc đã kéo đến Thăng Long, ông vô cùng tức giận, họp các tướng sĩ và quyết định “thân chinh cầm quân đi ngay”. Chỉ trong vòng một tháng, Nguyễn Huệ đã hoàn thành nhiều việc lớn: “Tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “đốc suất đại binh” ra Bắc, gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính, mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, lên kế hoạch hành quân, đánh giặc và đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Ông là người hành động liên tục, không ngừng nghỉ, với tính cách xông xáo, mọi quyết định đều nhanh chóng và dứt khoát, xứng đáng là vị chủ tướng tài ba.
Vua Quang Trung còn nổi tiếng là người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén trong mọi tình huống. Ông sở hữu tầm nhìn xa trông rộng, mưu lược cao siêu, giúp ông nắm bắt tình thế và thời cuộc một cách chính xác. Ông lên ngôi với mục đích “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, từ đó đưa ra những quyết định cân nhắc kỹ lưỡng, nhằm ổn định tình hình và đạt được mục tiêu cuối cùng. Ông phân tích tình hình quân địch, nhận định thế lực hai bên để đưa ra chiến lược phù hợp. Trong bài hịch, ông nêu rõ tội ác của giặc, khích lệ tinh thần quân sĩ, đồng thời nhắc đến những anh hùng dân tộc như Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng… Ông dùng lời lẽ mềm mỏng để thuyết phục những kẻ dễ dao động, nhưng vẫn giữ được uy quyền. Quang Trung hiểu rõ sở trường và sở đoản của các tướng lĩnh, vừa trách mắng vừa tha thứ, khiến họ tâm phục khẩu phục.
Với Quang Trung, tư tưởng quyết chiến, quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng luôn được đặt lên hàng đầu. Ông kiên quyết khẳng định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long, và ông đã làm được điều đó. Đây là một trong những trận chiến anh hùng nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Ông còn sử dụng ngoại giao mềm mỏng để giữ hòa bình và ổn định cuộc sống cho nhân dân. Trên chiến trường, ông tổ chức trận đánh linh hoạt, sáng tạo, kết hợp nhiều kế binh hiểm hóc, luôn giữ thế chủ động. Trận Hà Hồi, ông dùng trống rong cờ mở để đàn áp tinh thần quân giặc; trận Ngọc Hồi, ông dùng kế bện rơm tránh lửa, khiến quân địch hoảng loạn, không kịp trở tay.
Hình tượng vua Quang Trung được xây dựng với vẻ đẹp dũng mãnh, tài trí, vừa có tài vừa có đức, đại diện cho tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 3
Nguyễn Huệ, vị chiến tướng dùng kỳ mưu hạ thành Phú Xuân. Nguyễn Huệ, vị thống tướng đã tiêu diệt ba vạn quân Xiêm xâm lược tại Rạch Gầm - Xoài Mút trong một trận thủy chiến trời long đất lở. Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đã đạp đổ ngai vàng chúa Trịnh ở Đàng Ngoài rồi kết duyên cùng công chúa Ngọc Hân làm chấn động Bắc Hà. Nguyễn Huệ - vua Quang Trung đã tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược, xây nên Gò Đống Đa lịch sử bất tử.
Đọc Hồi thứ 14 "Hoàng Lê nhất thống chí", hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã để lại trong tâm hồn ta bao ấn tượng không phai mờ.
Những tác giả - những người con ưu tú của dòng họ Ngô Thì ở Tả Thanh Oai đã mượn lời nói của những cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tâu với Thái Hậu, rất khách quan, để giới thiệu Nguyễn Huệ với sự tâm phục và kinh sợ. Vì là người ở phía bên kia, phe đối địch, nên đại từ "hắn" mà người cung nhân này dùng để chỉ Nguyễn Huệ cũng chẳng hề làm mờ đi bức truyền thần vị chiến tướng trăm trận trăm thắng.
"Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hắn hơn sợ sấm sét."
Nên biết rằng lúc bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh đã đóng chật Thăng Long, coi nước ta chỉ là quận huyện của chúng, Lê Chiêu Thống đã được Thiên triều cho làm An Nam quốc vương, nhưng với cái nhìn sắc sảo, người cung nhân cũ đã chỉ ra sự bại vong tất yếu của bọn cướp nước và bè lũ bán nước: "E rằng chẳng bấy lâu nữa, hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi?" Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa năm 1789 đã cho thấy lời nói ấy là một dự báo linh nghiệm, một chân lí lịch sử rất hùng hồn.
Nguyễn Huệ là một con người "biết nghe và quyết đoán". Ngày 24 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788) nhận được tin cáo cấp do Nguyễn Văn Tuyết đưa vào, Nguyễn Huệ "giận lắm" định "cầm quân đi ngay" nhưng trước lời bàn "hãy chính vị hiệu", ông đã nghe theo để "giữ lấy lòng người" rồi mới xuất quân đi đánh dẹp cõi Bắc. Việc đắp đàn ở núi Bân, tế Trời Đất, thần Sông, thần Núi, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung đã chứng tỏ cái tầm nhìn chiến lược của người anh hùng áo vải khi Tổ Quốc đứng trước họa xâm lăng.
Cứu nước như cứu lửa. Ngày 25 còn ở Thuận Hóa thế mà 29 đã hành quân tới Nghệ An: gặp cống sĩ Nguyễn Thiếp, mộ thêm một vạn tinh binh, tổ chức duyệt binh lớn và truyền hịch đánh giặc cứu nước để kích thích chí khí tướng sĩ và ba quân "đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn", nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ "ăn ở hai lòng ... sẽ bị giết ngay tức khắc", vạch trần thói tàn bạo tham lam của người phương Bắc để kích thích lòng căm thù, kêu gọi tướng sĩ noi gương Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ ... để quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.
Chỉ hơn một ngày đêm, Nguyễn Huệ đã kéo quân ra tới Tam Điệp hội sưu với cánh quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở. Ông ra lệnh cho tướng sĩ ăn tết trước, hẹn đến mùng 7 vào Thăng Long sẽ mở tiệc ăn mừng, rồi chia đại quân thành năm đạo binh lớn "gióng trống lên đường ra Bắc".
Nguyễn Huệ thật "lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân." Ông đã lấy yếu tố bất ngờ để đánh thắng giặc: bắt sống toàn bộ quân giặc do thám ở sông Thanh Quyết và đồn Hà Hồi, bao vây tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, hàng vạn giặc bị giết "thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối". Tại đầm Mực làng Quỳnh Đô, giặc Thanh bị hợp vây, "quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người." Trong khi đó, một trận "rồng lửa" đã diễn ra ác liệt tại Khương Thượng, xác giặc chất thành 12 gò cao như núi. Nguyễn Huệ đã tiến công như vũ bão, khác nào "tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên" làm cho Tôn Sĩ Nghị "sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp ... nhằm hướng Bắc mà chạy." Trưa mùng 5, Nguyễn Huệ và đại quân đã kéo vào Thăng Long trước kế hoạch hai ngày.
Nhãn quan quân sự - chính trị của Nguyễn Huệ vô cùng sâu rộng và sáng suốt. Trên đường tiến quân đánh giặc Thanh, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm "người khéo lời lẽ" để "dẹp nỗi việc binh đao", đem lại "phúc cho dân."
Chiến thắng Đống Đa năm Kỉ Dậu (1789) là một trang sử chống xâm lăng vô cùng chói lọi của dân tộc ta. Nó thể hiện sức mạnh vô địch của lòng yêu nước và tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Nó đã dựng nên tượng đài tráng lệ, hùng vĩ người anh hùng áo vải – vua Quang Trung để dân tộc ta đời đời tự hào và ngưỡng mộ:
"Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước biết bao công trình"
("Ai tư vãn" – Ngọc Hân công chúa)
Xây dựng và khắc họa hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành công đặc sắc. Nó làm cho trang văn "Hoàng Lê nhất thống chí" thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 4
“Hoàng Lê nhất thống chí” là tác phẩm viết về những sự kiện lịch sử, với nhân vật chính tiêu biểu là anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ). Ông hiện lên với vẻ đẹp của một vị anh hùng dân tộc trong chiến công đại phá quân Thanh, với sự dũng mãnh, tài trí và tầm nhìn xa trông rộng. Quang Trung quả thực là một hình ảnh đẹp trong lòng dân tộc Việt Nam.
Một con người có hành động mạnh mẽ và quyết đoán: Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn thể hiện sự xông xáo, nhanh nhẹn, có chủ đích và quyết liệt. Khi nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất rộng, ông không hề nao núng mà quyết định “thân chinh cầm quân đi ngay”.
Chỉ trong vòng một tháng, Nguyễn Huệ đã hoàn thành nhiều việc lớn: “Tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “đốc suất đại binh” ra Bắc, gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính, mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, lên kế hoạch hành quân, đánh giặc và đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
Hơn thế nữa, ông còn sở hữu trí tuệ sáng suốt và nhạy bén:
Sự sáng suốt thể hiện qua việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Lời phủ dụ của ông có thể coi như một bài hịch ngắn gọn nhưng ý tứ sâu xa, kích thích lòng yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.
Sự nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người được thể hiện qua cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân mang gươm trên lưng chịu tội. Ông hiểu rõ sở trường và sở đoản của từng người, khen chê đúng mực.
Cùng với ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng, Quang Trung đã làm nên trang sử hào hùng cho dân tộc. Dù mới khởi binh, chưa giành lại được tấc đất nào, nhưng ông đã tự tin khẳng định: “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, đồng thời lên kế hoạch ngoại giao sau chiến thắng để dẹp yên binh đao, giữ yên đất nước.
Tài dùng binh như thần: Cuộc hành quân thần tốc dưới sự chỉ huy của vua Quang Trung đến nay vẫn khiến chúng ta kinh ngạc. Ngày 25 tháng Chạp xuất binh từ Phú Xuân (Huế), chỉ một tuần sau đã ra tận Tam Điệp cách Huế 500km. Đến đêm 30 tháng Chạp, vừa hành quân vừa đánh giặc, ông hoạch định mùng 7 tháng Giêng sẽ vào Thăng Long ăn Tết, nhưng thực tế đã vượt mức hai ngày. Dù hành quân xa và gian khổ, quân lính vẫn chỉnh tề, răm rắp nghe lệnh.
Hình ảnh Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận: Hoàng đế Quang Trung không chỉ thân chinh cầm quân trên danh nghĩa mà còn là một tổng chỉ huy thực thụ. Ông hoạch định chiến lược, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tiến công, cưỡi voi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế...
Đội quân của vua Quang Trung không phải là đội quân thiện chiến, lại vừa trải qua hành quân cấp tốc, không có thời gian nghỉ ngơi, nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình, họ đã đánh những trận thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống quân do thám ở Phú Xuyên, giữ bí mật tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi...). Trận Ngọc Hồi làm nổi bật tài trí và phong thái lẫm liệt của vua Quang Trung (khói tỏa mù trời, chỉ thấy hình ảnh ông nổi bật, áo bào đỏ sạm đen khói súng).
Từ những đoạn trích trên, ta thấy hiện lên trong lịch sử một nhân vật xuất chúng: lẫm liệt, oai phong, văn võ song toàn, đã ghi vào trang sử vẻ vang của dân tộc, làm sáng ngời truyền thống dân tộc. Ngàn đời sau, người anh hùng áo vải Quang Trung vẫn được nhắc đến với lòng kính phục và tự hào.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 5
“Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một trận oai bốn phương
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới
Như trên trời xuống ai dám đương”
(Ngô Ngọc Dụ)
Vua Quang Trung, vị anh hùng kiệt xuất của dân tộc. Vẻ đẹp uy nghi, trí tuệ của vua Quang Trung đã được phản ánh đầy đủ, trọn vẹn trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” hồi thứ 14.
Hồi thứ 14 kể về lần thứ ba ra Bắc Hà của Nguyễn Huệ. Ông đã tạo nên chiến công kỳ tích nhất trong lịch sử Việt Nam, với tốc độ tiến công thần tốc, chỉ trong 10 ngày đã tiêu diệt gọn quân Thanh, lấy lại nền độc lập cho đất nước. Chỉ trong đoạn trích ngắn này, vẻ đẹp khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược hơn người của ông đã được thể hiện rõ nét.
Đọc “Hoàng Lê nhất thống chí” hồi thứ 14, ấn tượng đầu tiên về vị anh hùng này chính là trí tuệ sáng suốt và sự quyết đoán mạnh mẽ. Khi 20 vạn quân Thanh tràn vào đất Bắc, chiếm giữ kinh thành Thăng Long, Nguyễn Huệ lúc đó đang là Bắc Bình Vương ở Phú Xuân. Nhận được tin cấp báo, lòng yêu nước trào dâng, ông định cầm quân đi ngay. Tuy nhiên, trước sự khuyên ngăn, ông đã suy nghĩ kỹ lưỡng và quyết định lên ngôi để danh chính ngôn thuận cầm quân ra Bắc. Ngay sau khi lên ngôi, Nguyễn Huệ - niên hiệu Quang Trung, đã ra lệnh xuất quân ngay. Không chỉ vậy, để giành chiến thắng trước kẻ địch mạnh, ông đã thể hiện sự mưu lược, sáng suốt khi nhận định tình hình hai bên, ra lời hịch vừa khích lệ binh tướng, vừa răn đe những kẻ hai lòng. Ông nhận rõ bản chất kẻ địch và khơi dậy lòng yêu nước trong lòng quân sĩ. Trước những lời lẽ đanh thép, sắc sảo của ông, tướng sĩ trên dưới một lòng tuân lệnh: “Xin vâng lệnh, không dám hai lòng”.
Không chỉ vậy, sự mưu lược của ông còn thể hiện qua cách nhận xét về thế mạnh và điểm yếu của bề tôi. Ông hiểu rõ năng lực của Sở và Lân, họ chỉ là “hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến việc tùy cơ ứng biến thì không có tài”. Bởi vậy, ông không trách cứ hay xử tội họ. Ông cử Ngô Thì Nhậm – người có tài mưu lược – hỗ trợ hai vị tướng. Cách hiểu người, dùng người đúng đắn, trách người đúng tội đúng việc đã khiến quân tướng ai nấy đều hài lòng và khâm phục. Nhờ sự am hiểu đó, ông đã thu phục được nhân tâm của mọi người.
Cuối cùng, sự sáng suốt của ông còn thể hiện ở tầm nhìn xa trông rộng. Ông nắm rõ tình hình, quân Thanh đang đóng quân khắp Bắc Hà, nhưng ông vẫn tự tin khẳng định chỉ trong mười ngày sẽ đánh đuổi sạch bóng quân Thanh. Không chỉ lo nghĩ đến việc dẹp yên giặc, ông còn tính trước cách ứng xử với chúng sau khi bị đánh đuổi về nước. Là một nước lớn, khi thua trận tất yếu sẽ sinh lòng cay cú, muốn trả thù. Bởi vậy, ông đã cử Ngô Thì Nhậm, dùng “khéo lời để dẹp yên binh đao”. Làm việc này cũng là để nhân dân nghỉ sức, ta có thời gian xây dựng đất nước, củng cố quân sự, để khi giặc Thanh có xâm lược lại, ta cũng không còn phải lo ngại. Qua những sự việc đó, hậu thế thấy được một con người tài trí sáng suốt, liệu việc như thần.
Không chỉ là người có trí tuệ sáng suốt, dưới ngòi bút của Ngô Gia Văn Phái, Quang Trung còn là người có tài thao lược hơn người. Ngay sau khi hạ lệnh xuất quân ra Bắc, ông lập tức lên đường, vừa đi vừa tuyển quân, khiến binh lực mạnh lên không ngừng. Ông thực hiện cuộc hành quân thần tốc nhất trong lịch sử, khiến ai cũng kinh ngạc. Từ Phú Xuân ra đến kinh thành Thăng Long, ông chỉ mất bốn ngày, trong khi vừa đi vừa tuyển quân, phương tiện di chuyển thô sơ chủ yếu là đi bộ và ngựa. Chính tốc độ hành quân thần tốc ấy đã khiến kẻ địch bất ngờ.
Đồng thời, ông chọn thời cơ chính xác, nhân dịp Tết Nguyên đán, giặc sơ hở, lo ăn chơi, để đánh một trận tiến quân lớn, đập tan các ngả quân của chúng. Ở mỗi trận đánh, ông có cách đánh linh hoạt, khiến kẻ thù choáng váng, tưởng “tướng từ trên trời rơi xuống, quân từ dưới đất chui lên”. Chính điều đó đã dẫn đến thắng lợi tất yếu của quân ta và thất bại thảm hại của kẻ thù. Quang Trung cùng các tướng sĩ đã đánh dấu một mốc son chói lọi và hào hùng vào trang sử vẻ vang dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Đẹp đẽ nhất là hình ảnh vua Quang Trung chỉ huy đội quân tướng sĩ trên chiến trường. Đó là vẻ đẹp của sự oai phong, lẫm liệt, khó ai có thể sánh kịp. Vua Quang Trung thân chinh cầm một mũi tiến công, chỉ huy xông ra trận. Trong ánh sáng buổi sớm, khói súng đạn mù mịt, vị anh hùng thân cưỡi voi, mình mặc áo bào lẫm liệt xông ra chiến đấu với kẻ thù. Một tạo hình uy nghi, lẫm liệt và vô cùng đẹp đẽ. Hình ảnh đó đã trở thành tượng đài bất hủ của dân tộc Việt Nam.
“Hoàng Lê nhất thống chí” hồi thứ 14 đã tạc lên tượng đài người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ một cách xuất sắc. Ông là con người toàn tài, vị vua anh dũng, sáng suốt, đánh tan quân xâm lược, đem lại độc lập cho dân tộc. Vẻ đẹp trí tuệ của vua Quang Trung cũng chính là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp, khí phách của dân tộc Việt Nam.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 6
“Hoàng Lê nhất thống chí” là tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng của nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái. Tác phẩm ghi chép lại các sự kiện lịch sử một cách chi tiết và chân thực. Ngoài việc phản ánh cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa nhà Lê và phong trào Tây Sơn, tác phẩm còn tập trung khắc họa chân dung anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ, điều này được thể hiện rõ nét trong hồi thứ 14.
Trước hết, Quang Trung hiện lên là một con người quyết đoán. Mỗi hành động của ông đều được suy nghĩ thấu đáo, biết rõ mục đích và quyết tâm thực hiện đến cùng. Khi biết quân Thanh đang chiếm đóng Thăng Long - vị trí chiến lược quan trọng, ông không hề nao núng mà lập tức họp bàn với các tướng lĩnh, đề ra kế sách và đích thân cầm quân lên đường. Chỉ có lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí kiên cường mới khiến ông hành động nhanh chóng và quyết liệt đến vậy. Khi nghe lời khuyên của các trọng thần, ông không do dự mà lập tức “đắp đàn trên núi Bân”, làm lễ tế cáo trời đất và các thần sông núi, rồi lên ngôi hoàng đế. Việc lên ngôi của Quang Trung không chỉ là sự chính danh mà còn là nhận lấy trọng trách lớn lao với dân tộc. Ngay sau lễ đăng quang, ông lập tức xuất quân vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân.
Không chỉ là một vị tướng quyết đoán, giàu mưu lược, Quang Trung còn biết trọng dụng người tài. Trước khi xuất quân, ông đã hỏi ý kiến của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp để đề ra kế sách vẹn toàn. Sau khi đưa đại binh cả thủy lẫn bộ tới Nghệ An, ông nghe lời khuyên của Nguyễn Thiếp, tổ chức tuyển quân, chiêu mộ binh sĩ. Khi hoàn thành, ông mở cuộc duyệt binh lớn, chia quân thành tiền, hậu, tả, trung để đối phó với địch. Sau khi ban bố lời phủ dụ, Quang Trung quyết định hạ lệnh tiến quân, vạch ra kế hoạch và phương hướng đối phó với quân Thanh một cách nhanh chóng. Những hành động thần tốc và quyết đoán ấy cho thấy bản lĩnh hơn người của vị vua dân tộc.
Ở Quang Trung, không chỉ có sự cương trực, quyết đoán mà còn là trí tuệ anh minh, nhãn quan sáng suốt. Ông biết phân tích điểm mạnh, điểm yếu giữa ta và địch, nhận định đúng sai và đưa ra quyết định đúng thời điểm. Đó là yếu tố then chốt dẫn đến những chiến thắng vang dội. Lời phủ dụ của ông vừa thâm sâu vừa đầy tình cảm, kích thích ý chí chiến đấu của quân sĩ: “Quân Thanh sang xâm lược nước ta, chớ bảo là ta không nói trước”. Những lời lẽ đầy sức thuyết phục từ một người tài năng và nhiệt huyết khiến quân sĩ nể phục, đồng lòng: “Xin vâng lệnh, không dám hai lòng”.
Sự thông minh xuất chúng của Quang Trung còn thể hiện ở khả năng dùng người tài ba. Ông biết chọn Ngô Thì Nhậm, người giỏi lý lẽ và khéo léo, làm tướng dẹp loạn, đem lại phúc lợi cho dân chúng. “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?”. Đặc biệt, cách xử trí với Sở và Lân trên núi Tam Điệp cũng khiến mọi người phải nể phục.
Nhờ tài năng và sự quyết đoán, cuộc chiến do Nguyễn Huệ thân chinh đã mang lại những chiến thắng thần tốc, vang dội non sông. Cuộc hành quân từ Huế đến Tam Điệp chỉ trong vòng một tuần, rồi tiến thẳng đến Thăng Long vào ngày 30 tháng Chạp, đến mùng 5 Tết đã hoàn thành nhiệm vụ. Tại Phú Xuân, quân ta bắt sống hàng loạt quân Thanh đang tháo chạy. Tại làng Hà Hồi, quân ta vây kín khiến giặc sợ hãi, xin hàng và giao nộp toàn bộ khí giới, lương thực. Trận chiến tại đồn Ngọc Hồi diễn ra ác liệt, quân Thanh tự làm hại mình, không chống cự nổi, giày xéo lên nhau mà tháo chạy. Quân ta thắng lớn, quân Thanh đại bại trong nhục nhã, tướng Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn.
Người anh hùng Nguyễn Huệ, một vị tướng tài ba, vị minh quân của dân tộc, được khắc họa rõ nét qua từng trang viết. Qua đó, ta thêm tự hào về truyền thống yêu nước và những danh nhân lịch sử. Từ đó, mỗi người cần cố gắng học tập, rèn luyện để sống xứng đáng với lý tưởng yêu nước mà ông cha đã gìn giữ và phát huy.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 7
Trường phái văn học của đại gia đình họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây nổi tiếng với bộ sách gồm thơ, phú và truyện ký, không chỉ đặc sắc về nghệ thuật mà còn có giá trị lịch sử cao. Nổi bật trong đó phải kể đến “Hoàng Lê nhất thống chí” như một thiên sử đồ sộ, kể lại những thăng trầm của đất nước thời Trịnh Sâm, phong trào Tây Sơn và sự lật đổ nhà Thanh. Nổi bật trong khúc tráng ca ấy là hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung.
Hình tượng người anh hùng Tây Sơn được khắc họa tập trung qua hồi 4, hồi 5 và hồi 14. Ở đó, người anh hùng hiện lên với đầy đủ tâm, tài, chí, dũng, là một trong những lý do dẫn đến sự sụp đổ của triều đại Lê-Trịnh và thắng lợi vẻ vang của nghĩa quân Tây Sơn. Với khí thế sấm chớp, hình tượng người anh hùng áo vải sánh ngang với các bậc anh hùng vĩ đại khác trong lịch sử.
Một trong những yếu tố cốt lõi làm nên người anh hùng là lấy “nhân nghĩa” làm đầu (Nguyễn Trãi đã đề cập trong “Bình Ngô đại cáo”). Ở Quang Trung, mọi hành động, suy nghĩ đều xuất phát từ cái tâm đẹp, một tấm lòng luôn nghĩ cho dân, lo lắng cho nước. Khác với những kẻ bán nước như Lê Chiêu Thống, tình yêu nước mãnh liệt trong lòng vị tướng tài đã thổi bùng lên ngọn lửa căm giận khi nghe tin quân Thanh sắp tràn vào lãnh thổ: “giận lắm, định cầm quân thân chinh đi ngay.” Tình yêu nước thấm đẫm trong lời hiệu triệu đến các binh sĩ, giọng hùng hồn, hào sảng, dứt khoát, thể hiện quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm. Ngài tin tưởng vào truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, rằng tội ác của quân giặc không thể dung tha. Lời hiệu triệu của Quang Trung như vang vọng lời Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, thúc giục tinh thần chiến đấu. Tình yêu nước của ngài mang trong đó linh hồn dân tộc tự ngàn đời.
Không chỉ yêu nước, thương dân, Quang Trung còn là người tài giỏi xuất chúng. Trí tuệ sắc bén, tầm nhìn xa trông rộng của ông thể hiện qua việc nhận định thời cuộc, vừa lên kế hoạch đánh giặc, vừa tính toán cách ứng xử sau chiến thắng. Nhờ sự sáng suốt, ông hiểu rõ binh lính và nhân dân là nòng cốt, nên tập trung khích lệ tinh thần chiến đấu, thậm chí cho quân sĩ ăn Tết trước khi ra trận. Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng quân Thanh chỉ trong 5 ngày, sớm hơn dự kiến, đã trở thành kỳ tích khiến hậu thế kinh ngạc, chứng tỏ tài năng quân sự đáng khâm phục của người anh hùng.
Ở Quang Trung, chí khí anh hùng thể hiện qua quyết tâm cao độ và hành động quyết đoán. Khi nghe tin giặc, chỉ trong một tháng, ông đã hoàn thành mọi nghi lễ tế cáo, tập hợp đủ quân binh và hành quân thần tốc, làm nên chiến thắng chớp nhoáng trước quân Thanh.
Quang Trung còn là vị tướng dũng cảm, xông pha trận mạc. Ông trực tiếp mặc áo giáp, cưỡi voi chỉ huy, vừa vạch ra chiến lược, vừa xông vào giữa làn tên đạn. Người anh hùng ấy, với lòng dũng cảm và ý chí hi sinh, đã hòa cùng khí thế ngút trời của nghĩa quân Tây Sơn, khiến quân địch khiếp sợ, thất bại nhanh chóng.
Với sự hội tụ của tâm, tài, chí và dũng, Quang Trung xứng đáng là linh hồn của nghĩa quân Tây Sơn, là tinh thần dân tộc của thời đại. Như Nguyễn Trãi từng nói: “Anh hùng hào kiệt thời nào cũng có”. Họ là Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, và giờ là Quang Trung. Dù khác biệt thời đại, nhưng những người anh hùng ấy đều mang trong mình khí thế non sông, là niềm tự hào của dân tộc, là huyền thoại vĩ đại để đời sau nhớ mãi.
Hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ nhắc nhở chúng ta về một thời đại vàng son trong lịch sử, khơi dậy ý thức dân tộc, tự nhắc mình phải tiếp bước cha ông trên con đường xây dựng và bảo vệ đất nước.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 8
Hoàng Lê nhất thống chí, một tác phẩm lịch sử viết bằng chữ Hán của Ngô gia văn phái, đã khắc họa những sự kiện lịch sử trọng đại. Tác phẩm này không chỉ tái hiện lịch sử mà còn để lại trong lòng độc giả hình ảnh một con người tài hoa, yêu nước, dành trọn đời mình cho dân tộc. Quang Trung, vị anh hùng dân tộc, người có công lớn trong việc đánh đuổi quân Thanh, được khắc họa rõ nét qua đoạn trích hồi thứ 14 với khí chất lẫm liệt và tài năng chiến lược vượt trội.
Quang Trung không chỉ là một anh hùng đa tài mà còn nổi bật với sự quyết đoán mạnh mẽ trong mọi hành động. Trong đoạn trích, ông hiện lên là một người có tính cách năng động, quyết định nhanh chóng và dứt khoát. Khi nghe tin quân giặc đã tiến đến Thăng Long, ông không chỉ tức giận mà còn nhanh chóng triệu tập các tướng sĩ, quyết định thân chinh cầm quân. Chỉ trong vòng một tháng, ông đã hoàn thành nhiều việc lớn, từ lên ngôi vua đến xuất quân đánh giặc.
Bên cạnh sự quyết đoán, Quang Trung còn là người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén. Ông có cái nhìn tổng quan về chiến tranh và thời cuộc, lên ngôi với mục đích ổn định đất nước và thu phục lòng dân. Ông phân tích tình hình quân địch, đánh giá thế lực hai bên để đưa ra những quyết định chiến lược. Ông còn biết cách động viên tinh thần binh sĩ bằng những tấm gương anh hùng từ lịch sử như Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng.
Quang Trung còn là người có tầm nhìn xa trông rộng. Ông tự tin khẳng định rằng phương lược đánh giặc đã được chuẩn bị kỹ lưỡng. Ông không chỉ nghĩ đến chiến thắng trước mắt mà còn lo xa đến việc ngoại giao sau chiến tranh để đất nước có thể phục hồi và phát triển. Ông tin rằng với sự chuẩn bị chu đáo, đất nước sẽ không còn phải sợ hãi trước bất kỳ kẻ thù nào.
Vua Quang Trung là một vị tướng tài ba với khả năng chỉ huy quân sự xuất chúng. Sự thần tốc và kỷ luật của quân đội dưới sự chỉ huy của ông khiến người ta không khỏi kinh ngạc. Dù đường hành quân dài và gian khổ, quân đội của ông vẫn giữ vững kỷ luật và tuân theo mọi mệnh lệnh.
Dưới sự chỉ huy tài tình của Quang Trung, quân đội đã giành chiến thắng vang dội trước quân địch. Ông không chỉ là một nhà chiến lược tài ba mà còn là một vị tướng dũng cảm, xông pha trận mạc, cưỡi voi dẫn đầu quân lính, đối mặt với hiểm nguy.
Qua ngòi bút tài hoa của Ngô gia văn phái, hình ảnh vua Quang Trung hiện lên thật lẫm liệt và anh dũng. Ông không chỉ là một vị vua tài năng mà còn là một biểu tượng bất tử trong lòng người dân Việt Nam, người đã đem lại bình yên và tự hào cho dân tộc.
Để hiểu rõ hơn về hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí, ngoài việc phân tích nhân vật Quang Trung, các em có thể tham khảo thêm các bài viết như: Phân tích và nêu cảm nghĩ về hồi thứ mười bốn, Tóm tắt Hoàng Lê nhất thống chí, Nghệ thuật xây dựng nhân vật vua chúa trong tác phẩm, và Phân tích hồi thứ mười bốn để chứng minh nhận định về tác phẩm. Những bài viết này sẽ giúp củng cố kiến thức và hiểu sâu hơn về tác phẩm.
....
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 8
Mẫu số 1
“Hoàng Lê nhất thống chí” là một kiệt tác văn học viết theo lối chương hồi, phản ánh chân thực và sống động bối cảnh lịch sử đầy biến động của Việt Nam cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Tác phẩm của Ngô gia văn phái đã dựng lên hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ, một nhân vật lịch sử vĩ đại, mang trong mình trí tuệ và tài năng xuất chúng.
Nguyễn Huệ hiện lên trong tác phẩm là một vị anh hùng dân tộc với tầm nhìn chiến lược, trí tuệ sắc sảo và tài thao lược hơn người. Ông là hiện thân của sự quyết đoán và hành động mạnh mẽ. Khi hay tin quân Thanh xâm lược và chiếm đóng Thăng Long, Nguyễn Huệ đã không chần chừ, lập tức làm lễ tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, và xuất quân đánh giặc. Qua đó, ta thấy được sự quyết liệt và tinh thần trách nhiệm cao độ của ông đối với vận mệnh đất nước.
Trước khi tiến quân ra Bắc, Nguyễn Huệ đã mời La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp để bàn bạc chiến lược. Điều này cho thấy ông không chỉ là một nhà quân sự tài ba mà còn là một vị minh quân biết trọng dụng hiền tài. Nhận thấy sự chênh lệch lực lượng giữa ta và địch, ông đã chiêu mộ binh lính, tổ chức duyệt binh lớn để củng cố sức mạnh. Ông còn lên kế hoạch chiến đấu với bốn doanh quân, thể hiện tầm nhìn chiến lược và sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Những lời động viên sắc bén của ông đã khơi dậy tinh thần chiến đấu và lòng tự hào dân tộc trong quân sĩ.
Là một vị tướng tài ba, Nguyễn Huệ luôn đề cao kỷ luật quân đội. Ông nghiêm khắc xử phạt những kẻ phản bội và thưởng phạt công minh. Đội quân của ông đã thực hiện cuộc hành quân thần tốc nhờ chiến lược thay phiên nhau điều quân, đảm bảo sức khỏe và tinh thần chiến đấu. Cách chống lại vũ khí của giặc cũng rất sáng tạo, khiên được bọc rơm ướt để vô hiệu hóa hỏa tiễn của địch.
Ngô gia văn phái đã khắc họa chân dung Nguyễn Huệ một cách chân thực và sống động, một người anh hùng trí tuệ, oai phong lẫm liệt. Dù từng phục vụ triều Lê, các tác giả đã đứng trên lập trường dân tộc để ca ngợi vua Quang Trung, khiến tác phẩm mang giá trị lịch sử và nhân văn sâu sắc.
Mẫu số 2
Hình tượng người anh hùng đã in sâu vào tâm thức dân tộc, trở thành biểu tượng bất diệt trong văn học. Từ văn học hiện đại, ta bắt gặp hình ảnh người chiến sĩ cách mạng, anh hùng thế kỷ XX qua ngòi bút của các nhà văn, nhà thơ. Trở về với văn học trung đại, ta lại được chiêm ngưỡng hình tượng người anh hùng làm nên lịch sử vẻ vang, trong đó nổi bật là người anh hùng áo vải Quang Trung, được Ngô Gia văn phái khắc họa qua những trang sử hào hùng. Trong hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất thống chí”, Quang Trung hiện lên với khí phách kiên cường, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược vượt trội.
“Hoàng Lê nhất thống chí” là tác phẩm văn xuôi chữ Hán quy mô lớn, đạt thành tựu xuất sắc cả về nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm phản ánh những sự kiện lịch sử cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, khắc họa hình tượng người anh hùng Quang Trung qua sự kiện tiêu biểu: đại phá quân Thanh.
Hình ảnh đầu tiên của Quang Trung là một vị hoàng đế trí tuệ, quyết đoán.
Khi 20 vạn quân Thanh tràn vào Bắc Hà, chiếm đóng Thăng Long, Nguyễn Huệ - lúc đó là Bắc Bình Vương - đang ở Phú Xuân. Nhận tin cấp báo, ông định “thân chinh cầm quân đi ngay”, nhưng sau khi nghe lời bàn của tướng sĩ, ông nhận ra cần lên ngôi hoàng đế để “chính vị niên hiệu”, “giữ lấy lòng người” rồi mới xuất quân. Chỉ trong một ngày, ông hoàn thành hai việc lớn: lên ngôi, lấy niên hiệu Quang Trung và hạ lệnh xuất quân. Sự quyết đoán và sáng suốt của ông thể hiện rõ qua việc nắm bắt thời cơ và lòng dân.
Quang Trung không chỉ quyết đoán mà còn là người mưu lược sáng suốt. Trước khi xuất quân, ông dụ tướng sĩ: “Trong vũ trụ, đất nào sao ấy đã phân định rõ ràng…”. Ông khích lệ tinh thần yêu nước, nêu bật chính nghĩa của ta và sự phi nghĩa của địch. Ông dẫn chứng từ lịch sử, khẳng định chủ quyền dân tộc và lên án hành động xâm lược của quân Thanh. Qua lời lẽ sắc bén, ông khơi dậy lòng tự hào dân tộc, kêu gọi tướng sĩ đồng lòng hiệp lực. Lập luận chặt chẽ của ông khiến ta nhớ đến “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn và “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt.
Quang Trung còn thể hiện sự sáng suốt trong việc khiển tướng. Ông hiểu rõ năng lực của tướng sĩ, biết cách sử dụng người tài. Đối với Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân, ông không trách phạt mà động viên, sắp xếp Ngô Thì Nhậm hỗ trợ họ. Sự am hiểu và ân uy đúng mực giúp ông tập hợp được lực lượng hùng mạnh, như Lê Lợi xưa kia:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc, ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phu tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”
Tầm nhìn xa trông rộng của Quang Trung thể hiện qua chiến lược đánh đuổi quân Thanh trong mười ngày. Ông không chỉ nghĩ đến chiến thắng trước mắt mà còn lo xa đến việc ngoại giao sau chiến tranh. Ông chọn Ngô Thì Nhậm để đàm phán với nhà Thanh, thể hiện tầm nhìn chiến lược sâu sắc. Ngay cả khi ngồi trên lưng voi, ông đã tính toán kế hoạch mười năm sau, chứng tỏ ông là một nhà chính trị, quân sự tài ba.
Quang Trung không chỉ là nhà quân sự tài ba mà còn là vị tướng có tài thao lược hơn người. Cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của ông là minh chứng rõ nhất.
Tài năng quân sự của Quang Trung thể hiện qua việc tổ chức chiến dịch thần tốc. Ngày 25 tháng Chạp, ông xuất quân từ Phú Xuân, ngày 29 đã tới Nghệ An, vượt qua 350km địa hình hiểm trở. Tại Nghệ An, ông tuyển quân, duyệt binh chỉ trong một ngày. Ngày hôm sau, quân tiến ra Tam Điệp, và đêm 30 tháng Chạp, quân lính lập tức lên đường tiến ra Thăng Long. Tất cả đều đi bộ, có sách còn ghi ông sử dụng võng khiêng để quân lính luân phiên nghỉ ngơi. Từ Tam Điệp ra Thăng Long, quân đội của ông vừa hành quân vừa đánh giặc, hoàn thành kế hoạch sớm hai ngày. Sự chỉ huy tài tình của Quang Trung giúp quân đội luôn chỉnh tề, một lòng quyết chiến.
Tài thao lược của Quang Trung còn thể hiện qua cách đánh bất ngờ. Ông biết tận dụng sự kiêu căng của địch, tổ chức tấn công nhanh chóng. Kết quả là quân Thanh tại đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi không kịp trở tay. Khi quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không hề hay biết. Quân Thanh thất bại thảm hại, như Nguyễn Trãi viết trong “Bình Ngô đại cáo”:
“Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”
Quang Trung và quân đội của mình đã làm nên chiến thắng lẫy lừng, khẳng định tài năng quân sự và tầm nhìn chiến lược của ông.
Trong hồi thứ 14, Quang Trung hiện lên không chỉ là người trí tuệ, quyết đoán mà còn là vị anh hùng lẫm liệt trên chiến trường. Ông cưỡi voi chỉ huy, phong thái ung dung, tự tin khẳng định “10 ngày đánh đuổi quân Thanh”. Dưới ngòi bút của Ngô Gia văn phái, hình ảnh Quang Trung khoác áo bào đỏ, cưỡi voi chỉ huy quân đội tiến vào Thăng Long trở thành biểu tượng bất diệt của lịch sử dân tộc.
“Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh”.
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, nhiều vị vua đã thân chinh cầm quân đánh giặc, nhưng chỉ có Quang Trung là người vừa nắm quyền chỉ huy, vừa quyết đoán trong chiến lược, vừa trực tiếp đốc thúc chiến dịch và xông pha nơi nguy hiểm. Trong ánh sáng mờ ảo của buổi bình minh, giữa làn khói súng mù mịt, Quang Trung hiện lên với khí phách lẫm liệt, hào hùng, tạo nên hình tượng đẹp đẽ vượt xa tầm vóc của một người anh hùng áo vải. Hình tượng ấy trở thành biểu tượng cao quý của bậc vĩ nhân, được sử sách ghi lại: “Ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu”, tấm áo bào đỏ của vua Quang Trung sạm đen vì khói súng. Hình ảnh người anh hùng ấy đã trở thành tượng đài bất hủ trong văn học cổ Việt Nam, khắc sâu vào tâm trí người đọc khí phách hiên ngang, lẫm liệt. Đây là hình tượng người anh hùng thực sự, đủ tầm vóc để các tác giả Ngô Gia văn phái, dù trung thành với nhà Lê, cũng không thể bỏ qua chiến công lừng lẫy của Quang Trung và sự yếu hèn của nhà Lê “cõng rắn cắn gà nhà”. Họ đã trở thành những người ghi chép lịch sử chân thực, tận tâm, viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc.
Vẻ đẹp của Quang Trung trong khúc khải hoàn ca chiến thắng còn được lưu lại qua những vần thơ của Ngô Ngọc Du, một nhà thơ đương thời:
“Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một giận oai bốn phương
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới
Như trên trời xuống ai dám đương …”
Hồi thứ 14 của “Hoàng Lê nhất thống chí” là đóng góp vô giá của Ngô Gia văn phái, khắc họa những trang sử hào hùng của dân tộc qua hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung. Như ánh sáng le lói nhưng vẫn lấp lánh hào quang, hình tượng vị vua anh hùng ngày càng cao rộng, lan tỏa, khắc sâu vào tâm khảm chúng ta vẻ đẹp của trí tuệ sáng suốt, tài thao lược hơn người và khí phách hào hùng. Đến nay, giai thoại về người anh hùng mưu trí, tài năng, vị vua anh minh của dân tộc vẫn được lưu truyền.
......Xem chi tiết tại file tải dưới đây.....
- Bài đọc: Hướng dẫn làm thỏ con bằng giấy - Sách Tiếng Việt 4 Kết nối tri thức, Tập 1, Bài 21
- Đề cương ôn tập giữa kì 1 môn Ngữ văn 6 năm 2024 - 2025 (Sách mới) - Tổng hợp đề thi giữa kì 1 Văn 6 bộ sách Cánh Diều, Chân Trời Sáng Tạo, Kết Nối Tri Thức
- Tập làm văn lớp 4: Kể lại truyện Nàng Tiên Ốc (Dàn ý chi tiết cùng 20 bài văn mẫu) - Văn kể chuyện lớp 4
- Tuyển tập 16 bài văn mẫu lớp 6 hay nhất: Tả người thân yêu và gần gũi nhất với em (ông, bà, cha, mẹ...)
- Cảm nhận sâu sắc về tác phẩm Lao xao ngày hè - Tuyển tập 4 bài văn mẫu đặc sắc dành cho học sinh lớp 6