Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Thương Vợ (3 Dàn ý & 23 Bài Mẫu) - Những phân tích sâu sắc và xuất sắc nhất
Phân tích Thương vợ của Trần Tế Xương cung cấp 23 bài văn mẫu xuất sắc, đạt điểm cao từ các học sinh giỏi. Thông qua những bài phân tích đa dạng, bạn sẽ có thêm nguồn tài liệu phong phú để ôn luyện, trau dồi kiến thức và nắm vững cách viết một bài văn phân tích sâu sắc.

TOP 23 bài phân tích bài thơ Thương vợ được trình bày với văn phong mạch lạc, dễ hiểu, bao gồm cả bài tóm tắt và bài đầy đủ. Qua đó, ta cảm nhận được tình cảm sâu nặng và chân thành mà nhà thơ dành cho người vợ của mình. Trước Tế Xương, hiếm có thi nhân nào viết về người vợ với sự lắng đọng và sâu sắc đến vậy. Bên cạnh đó, bạn có thể tham khảo thêm phần mở bài và kết bài cho bài thơ Thương vợ.
Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
- 1. Sơ đồ tư duy phân tích Thương vợ
- 2. Dàn ý phân tích bài thơ Thương vợ
- 3. Phân tích bài thơ Thương vợ
- 4. Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
- 5. Phân tích Thương vợ (3 Mẫu)
- 6. Phân tích bài Thương vợ (2 Mẫu)
- 7. Phân tích Thương Vợ ngắn gọn (3 Mẫu)
- 8. Phân tích tác phẩm Thương vợ (13 Mẫu)
1. Sơ đồ tư duy phân tích Thương vợ

2. Dàn ý phân tích bài thơ Thương vợ
I. Mở bài
- Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương: một nhà thơ mang tư tưởng li tâm Nho giáo, dù cuộc đời ngắn ngủi nhưng để lại nhiều tác phẩm giá trị.
- Thương vợ là một trong những bài thơ xuất sắc và xúc động nhất của Tú Xương viết về bà Tú.
II. Thân bài
1. Hai câu đề
- Hoàn cảnh bà Tú: gánh vác trọng trách gia đình, quanh năm vất vả “mom sông”.
- Thời gian “quanh năm”: làm việc không ngừng nghỉ, không kể ngày đêm, năm này qua năm khác.
- Địa điểm “mom sông”: nơi đất nhô ra lòng sông, chênh vênh và không ổn định.
⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không có sự ổn định hay bền vững.
- Lí do:
- “nuôi”: chăm sóc toàn diện
- “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải lo toan cho cả gia đình, không thiếu cũng không dư.
⇒ Việc nuôi con đã là chuyện thường tình, nhưng bà còn phải nuôi chồng ⇒ hoàn cảnh trớ trêu, éo le.
- Cách dùng số đếm độc đáo “một chồng” ngang bằng “năm con”, ông Tú tự nhận mình cũng là một đứa con đặc biệt. Kết hợp với nhịp thơ 4/3, thể hiện sự vất vả của vợ.
⇒ Bà Tú là người phụ nữ đảm đang, chu đáo với chồng con.
2. Hai câu thực
- Lặn lội thân cò khi quãng vắng: ý tưởng lấy cảm hứng từ ca dao “Con cò lặn lội bờ sông” nhưng được sáng tạo thêm (đảo từ “lặn lội” lên đầu và thay “con cò” bằng “thân cò”):
- “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng
- Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tính khái quát.
- “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu.
⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ.
- “Eo sèo… buổi đò đông”: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc
Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu.
- Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.
⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú: Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.
3. Hai câu luận
- “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, Tú Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu.
- “nắng mưa”: chỉ vất vả
- “năm”, “mười”: số từ phiếm chỉ số nhiều
- “dám quản công”: Đức hi sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.
⇒ Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.
4. Hai câu kết
- Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi: “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”: tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả.
- Tự ý thức: “Có chồng hờ hững”: Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thói đời.
- Nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và chồng.
→ Từ tấm lòng thương vợ đến thái độ đối với xã hội, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc.
III. Kết bài
- Khẳng định lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công nội dung của tác phẩm.
- Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xã hội hôm nay.
............
3. Phân tích bài thơ Thương vợ
Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương đôi khi được tách ra thành những bài thơ trữ tình thuần khiết, thấm thía. Hai kiệt tác “Sông Lấp” và “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương.
Bài thơ sau đây là bài “Thương vợ” của Tú Xương:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Trần Tế Xương lận đận trong thi cử, đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú tài. Ông học giỏi nhưng phải cái ngông quá, thật ra thái độ ngông của ông là một cách ông phản kháng lại chế độ thi cử lạc lậu, quan trường “ậm ọc” lúc bấy giờ. Mà đậu được cái tú tài thì rồi cũng làm “quan tại gia” thôi. Hồi đó phải đậu cử nhân mới được bổ tri huyện. Thế là bà Tú gần như phải nuôi chồng suốt đời. Ông Tú chỉ còn biết đem tài hoa của mình mà ghi công cho bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Từ “mom” thật là hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với việc buôn bán khó nhọc của vợ. Từ “mom” là tổng hợp nghĩa của các từ ven, bờ, vực, thềm, thành một từ sáng tạo của nhà thơ làm giầu thêm cho tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng bán bưng quanh năm ở “mom sông” mà nuôi chồng, nuôi con:
“Nuôi đủ năm con với một chồng”
Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mà tế toái lắm đó! “Nuôi đủ năm con” là vì con, phải nuôi, nên đếm ra để mà nuôi. Nhưng còn chồng thì một chồng chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Là vì chồng cũng phải nuôi, mà bà Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã là vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng gấp đôi. Thời đó mà nuôi một ông Tú, lại là Tú Xương nữa thì nhiêu khê lắm.
Nhưng bà Tú được an ủi là vì ông Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông đùa, cười cợt đó lại để tâm đến từng bước chân của bà trên đường lặn lội buôn bán:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Có thể nói lòng thương vợ của nhà thơ dào dạt lên trong hai câu thơ này. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”
Nếu như từ “lặn lội” được đảo ra phía trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú, thì từ “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp (tiếng kì kèo mặc cả, tiếng cãi cọ tranh giành) của “buổi đò đông”. Hai tình huống đối lập thật hay: “vắng” và “đông”. Người phụ nữ gánh hàng lặn lội trên quãng đường vắng thật là khổ. Mà đến chỗ “đò đông” thì thật là đáng sợ!
Nghĩa là nhìn từ phía nào, nhà thơ cũng thương vợ, tình thương thấm thía, cảm động.
Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), còn “nợ” thì đã thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bà chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bà đâu “dám quản công”:
“Năm nắng mười mưa dám quản công”
Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết.
Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Vì quá thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời…” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ông Tú nhún mình để cho công trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì nhà thơ đã thành thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng kính.
Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.
Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú dành cho bà Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mà xét thì ông Tú cũng xứng với bà Tú vì trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng chỉ có một bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử!
4. Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
“Văn học nằm ngoài những quy luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Thơ văn Tú Xương chính là một trường hợp như vậy. Thể xác của ông hơn 100 năm nay đã hòa tan thành một cùng với đất mẹ nhưng sự nghiệp văn chương của con người tài hoa đó chưa bao giờ ngừng sống để làm lay chuyển lòng người, bất chấp tất cả mọi thử thách của thời gian.
Nhắc đến Tú Xương chúng ta không thể không nhắc đến “Thương vợ” bài thơ trữ tình thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh và trào phúng bản thân và bày tỏ tấm lòng yêu thương, kính trọng của ông đối với người vợ tần tảo hi sinh suốt một đời vì chồng, vì con và vì gia đình.
Tú Xương lấy vợ từ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một người nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà tri thức phong kiến thuộc loại nhà Nho “Dài lưng tốn vải” phải sống nương tựa vào người vợ của mình. Mọi chi tiêu ở trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào trong bài thơ ca của ông “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm” hay là “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”.
Trong bài “Thương vợ” cũng vẫn là những vấn đề đó cũng được thể hiện sâu sắc qua tám câu thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu đề đã mở ra một không gian, thời gian và công việc của bà Tú. Một công việc vất vả và cơ cực và gian nan vô cùng:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Nghề buôn bán theo quan niệm của người xa xưa là con đường đầu tiên để làm giàu “Phi thương bất phú” nhưng công việc của bà Tú thì lại đối lập lại hoàn toàn. Chỗ buôn bán ở đây không phải là ở vùng đất tốt, bằng phẳng mà ở “mom sông”. Theo cách hiểu của nhà thơ Xuân Diệu: “là cái địa điểm cheo leo chênh vênh, chứ không phải ở cái bến ngang sông tấp nập bình thường”.
“Mom sông” đã cụ thể hóa được địa điểm buôn bán của bà Tú ở nơi “đầu sóng ngọn gió”, đối mặt với bao nhiêu nguy hiểm khi nước xuống thì còn, nước lên thì mất. Thời gian ở đây là “quanh năm” hết ngày này lại qua tháng khác. Thời gian đằng đẵng và chẳng bao giờ được nghỉ ngơi. Một công việc nhọc nhằn, vất vả mà người vợ đã phải gánh vác để lo cho gia đình.
Trước đây với cái quan niệm “Trọng nam khinh nữ”, “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” những việc lớn như kinh tế gia đình là phải do người đàn ông lo liệu nhưng người gánh vác trách nhiệm đó ở đây là bà Tú – người đàn bà giàu lòng yêu thương và giàu nghị lực có thể “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Đủ ở đây là nuôi cho đủ miếng cơm manh áo. Một người làm mà tới bảy miệng ăn ta thấy trách nhiệm nặng nề được đặt lên đôi vai người phụ nữ gia đình.
Trong câu thơ này có sử dụng nghệ thuật đối năm con chính là số nhiều nhưng lại được đặt ngang hàng để đối cùng với một chồng là số ít. Đủ cơm ăn áo mặc cho năm con ngang bằng cùng với số tiền bạc để nuôi một chồng. Như ta đã biết là cuộc đời ông Tú ngắn ngủi và đơn giản, 37 năm, dường như gói gọn ở trong ba việc chính: đi học, đi thi và làm thơ. 15 tuổi ông bắt đầu đi thi, 22 năm ròng rã còn lại vẫn đi thi và trải liền tám khóa lều chõng mỗi lần lên kinh dự thi là biết bao nhiêu chi phí, tiền của do một tay của bà Tú trang trải. Khép lại hai câu đề miêu tả về không gian, thời gian và công việc của bà Tú đến hai câu thực đã mở ra một hình ảnh “thân cò”:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo nước mặt buổi đò đông”
Câu thơ gợi cho ta nhớ tới hình ảnh quen thuộc trong ca dao: “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”. Hình ảnh ấy gắn liền cùng với thân phận người phụ nữ Việt Nam tần tảo sớm ngày lo cho gia đình. Bà Tú ở đây chính là thân cò một thân phận, số phận cụ thể gợi về một sự mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc đời. nhà thơ đã sử dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cò” làm cho hình ảnh ấy càng trở nên cụ thể và sâu sắc hơn.
Chắc hẳn bà Tú cũng không quên được lời dặn của cổ nhân “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng vì miếng cơm manh áo của gia đình mà phải liều lĩnh đối mặt với chốn nguy hiểm để rồi phải “eo sèo” nơi “đò đông”. Hai tính từ ở câu đầu và câu cuối đối nhau vừa có tính gợi hình lại gợi cảm.
Dường như tác giả đang rất cảm thông và thương xót cho thân phận của vợ mình mà như nhỏ lệ trước hình ảnh đó. Hai câu thơ có thể được coi là hay nhất ở trong bài cũng như khiến cho người ta rung động nhất khi tái hiện về hình ảnh người vợ ở trong thơ Tú Xương.
Nếu như ở bốn câu thơ đầu nhà thơ giữ vị trí, đóng vai trò là một người chồng đứng ở bên ngoài “khách quan” để quan sát, nhận xét và cảm thông cho bà Tú thì ở bốn câu thơ sau Tú Xương nhập thân vào trong tâm tư và nỗi niềm của người vợ để cất lên tiếng than “chủ quan” và chân thực hơn. Hai câu luận chính là lời than thở mà Tú Xương nói hộ lòng vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Chữ “duyên” theo nghĩa Hán Việt có nghĩa là duyên cớ làm phát sinh một việc gì đó. Duyên theo quan niệm của Phật giáo chính là phần trời định cho con người gặp gỡ, có khả năng yêu nhau và trở thành một cặp vợ chồng, giúp các cặp đôi yêu thương gắn kết ở trong cuộc đời. “Tu trăm năm mới thành bạn đồng hành, tu ngàn năm mới được chung chăn gối” dân gian đã tạo thành một cặp duyên và nợ.
Dưới cái nhìn của Tú Xương duyên thì chỉ có một mà nợ thì có hai, duyên thì ít nợ thì nhiều. Ngẫm cho kỹ bà Tú lấy được ông Tú cũng chính là một cái duyên nhưng với người chồng “hờ hững” ấy thì nợ lại có nhiều hơn. Chính vì điều đó đã khiến cho sự vất vả và cực nhọc của một thân phận đã được nâng lên thành định mệnh của cả một kiếp người. Vì là duyên là nợ nên “âu cũng đành phận”. Âu có nghĩa là cam chịu và đành chấp nhận.
Vì là cam chịu và chấp nhận điều đó cho nên “năm nắng mười mưa dám quản công”. Các số từ theo thứ tư: một, hai, năm, mười đã được sắp xếp theo sự tăng tiến cho thấy khó khăn chồng chất lên khó khăn trên đôi vai của bà Tú. “Âu đành phận” và “dám quản công” đã được đặt ở cuối mỗi câu thơ cho thấy cách ứng xử của người làm vợ luôn nhẫn nhục và chịu đựng tất cả vì chồng con.
Khép lại bài thơ là hai câu kết được nâng lên thành tiếng chửi. Thác ra giọng bà Tú, Tú Xương đã chửi rủa cái bạc bẽo của cha mẹ nhà chồng và sự vô tích sự của bản thân đối với vợ mình.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Những bà mẹ chồng thời xưa thường là “nỗi kinh hoàng” của những nàng dâu, vì quan niệm phong kiến trong hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nào mua một người làm không công mà đối xử tệ bạc với con dâu. Ta cũng đã từng bắt gặp tiếng chửi ấy nhẹ nhàng mà thâm thúy ở trong ca dao như là: “Tiếng đồn cha mẹ anh hiền/ Cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ đôi” hay là “Trách cha trách mẹ nhà chàng/ Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau”.
Tú Xương không chỉ là một nhà thơ trữ tình mà còn rất nổi tiếng là nhà thơ trào phúng. Thơ của ông không chỉ là tiếng chửi bọn quan lại thời phong kiến dốt nát mà còn là những vần thơ tự trào về bản thân. Trong câu thơ trên nhà thơ đã mượn lời vợ mình để chửi chính bản thân của mình là một người chồng “hờ hững”, vô tích sự không gánh đỡ gì được cho vợ mà ngược lại lại còn làm nặng trĩu thêm cái gánh nợ đời trên đôi vai của bậc hiền phụ.
Nhà thơ coi mình chính là kẻ chẳng ra gì cũng là một cách để ca ngợi và đề cao vợ theo cái cách chưa từng thấy ở trong thơ văn trung đại: “Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó/ Quắc mắt khinh đời cái bộ anh”. Cái đặc sắc ở hai câu kết tuy là tiếng chửi nhưng vẫn mang hàm ý đùa vui, tự cười và tự trách mình nhưng vẫn là để bày tỏ sự cảm thông với vợ.
Tú Xương cùng với Nguyễn Khuyến chính là hai đại diện cuối cùng cho nền văn học trung đại Việt Nam ở cuối thế kỉ XIX, hai nhà thơ rất tiêu biểu và đặc sắc cho những vần thơ tự trào. Thơ ông với những cách tân mới mẻ về ngôn ngữ được viết theo xu hướng khẩu ngữ hóa, sử dụng những ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn đảm bảo âm điệu trữ tình và có sức gợi hình và gợi cảm.
“Thương vợ” là một bài thơ hay có sự kết hợp tài hoa giữa ngôn ngữ dân gian với ngôn ngữ bác học một cách tinh xảo và phong phú khắc họa được chân dung bà Tú và bộ lộ được tâm trạng, tình cảm của Tế Xương dành cho vợ của mình. Cùng với đó là cách ngắt nhịp truyền thống ở trong thơ Đường luật là 4/3 và 2/2/3 càng làm cho bài thơ trở nên mềm mại và uyển chuyển hơn.
Bài thơ “Thương vợ”của Trần Tế Xương đã thể hiện được ân tình sâu nặng và tình cảm chân thành của nhà thơ đối với người vợ của mình. Trước Tế Xương hiếm có thi nhân nào mà có những bài thơ viết về người vợ hay và lắng đọng, sâu sắc như ông. Bài thơ không chỉ cho thấy được một tâm hồn cởi mở, đôn hậu của nhà thơ đối với vợ mà còn chứng tỏ được tài năng, thi bút của một người thi sĩ biết vận dụng và sáng tạo ngôn ngữ dân gian.
5. Phân tích Thương vợ (3 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
Trần Tế Xương hay còn có bút danh là Tú Xương, ông là một tác giả nổi tiếng với nhiều tác phẩm mang chất trào phúng và trữ tình. Ông chỉ sống 37 tuổi và học vị tú tài, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông đã trở thành bất tử. Ông để lại khoảng 100 tác phẩm gồm: thơ, văn tế, phú, câu đối. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ “Thương vợ”. Một bài thơ tô đọng trong đó là những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người phụ nữ đảm đang, chịu thương, chịu khó vì hạnh phúc của chồng con. Bài thơ được Tú Xương viết như sau:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đành phận
Năm nắng mười mưa, dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với bố cục được chia làm bốn phần: đề, thực, luận, kết. Mỗi phần hai câu nhằm khắc họa một cách sắc nét hình ảnh bà Tú- vợ Tú Xương, cũng như đang nói lên một phần nào đó hình ảnh người phụ nữ ở xã hội xưa.
Trong hai cầu đề Tú Xương đã giới thiệu một cách khái quát về công việc của bà Tú. Đó là sự tần tảo “quanh năm” buôn bán ở mom sông, việc mua bán này không hề có cửa tiệm hay vốn liếng nhiều. Đây là một công việc vất vả, cực nhọc, thu nhập bất ổn sông bà Tú vẫn đang “nuôi đủ” năm con với một chồng mà không một lời oán trách. Trong câu này, tác giả tách mình một bên, con một bên nhằm nhấn mạnh việc, mặc dù ông đỗ tú tài nhưng không được làm quan, phải đặt gánh nặng lên đôi vai của người vợ, người mà ông yêu thương. Câu thơ như là lời trách nặng nề của tác giả đối với chính bản thân mình, Nhưng qua câu thơ ta cũng thấy được cái tình cảm yêu thương mà Tú Xương dành tặng cho vợ mình.
Để diễn tả một cách cụ thể hơn sự vất vả trong công việc của bà Tú, trong hai câu thực tác giả đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam để biến thành “thân cò” nhằm thể hiện sự lặn lội vất vả của bà Tú trong công việc mưu sinh hàng ngày tại nơi “quãng vắng”. Bên cạnh đó, Tú Xương còn khái quát một cách sinh động cảnh bán buôn ở mom sông của bà Tú qua câu “Eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Đó là hình ảnh nhốn nháo, tranh chấp mua bán của nhiều con người có công việc như bà Tú. Nhìn chung, cuộc đời bà Tú không ít khó khăn gian khổ.
Sự khó nhọc, vất vả của bà Tú không được dừng lại ở hai phần đề và thực mà nó còn tăng lên ở phần luận. Bằng việc sử dụng hai câu thuật ngữ “một duyên, hai nợ” và “năm nắng mười mưa” tác giả đã toát lên sự hi sinh cao cả của bà Tú, đó là việc chấp nhận số phận chăm lo cho chồng con và dù nắng hay mưa cũng không bỏ việc. Ở đây, Tú Xương đã nêu lên đức tính tốt đẹp của bà Tú nói riêng và người phụ nữ nói chung, đó là sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại, sẵn sàng hi sinh vì gia đình. Đồng thời qua đây tác giả cũng bộc lộ nỗi niềm biết ơn và quý trọng đối với bà Tú.
Cùng với quý trọng và biết ơn bà Tú ở hai câu luận, thì hai câu kết là một cách nói ngao ngán về nỗi niềm tâm sự của tác giả- Tú Xương. Một lời thở dài về “cái thói đời” ông nhắc đến chính là cái xã hội lúc bấy giờ- một xã hội mang tính nửa tây nửa ta, nửa phong kiến, nửa thực dân với những tư tưởng và đạo lí bị suy thoái. Bên cạnh ông tự trách bản thân sao mà “ăn ở bạc” thi cử hoài mà không đỗ đạt, chẳng thể làm quan, không giúp được gì cho vợ con, đẩy vợ con phải chịu khổ vì mình. Cuối cùng mọi thứ đúc kết trong lời than đầy xót xa của Tú Xương
“Có chồng hờ hững cũng như không”.
Tóm lại “Thương vợ” là một bài thơ hay mang đậm giá trị cảm xúc của Tú Xương. Nó hay trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong ca dao, thành ngữ của Tú Xương. Bài thơ lại mang đậm cảm xúc chân thành, lời thơ giản dị mà sâu sắc, nói lên tình cảm yêu thương, sự quý trọng mà Tú Xương dành cho vợ. Bên cạnh đó, bài thơ còn thể hiện đức tính đẹp của người phụ nữ Việt Nam xã hội xưa nói chung và bà Tú nói riêng.
Bài làm mẫu 2
Tú Xương là nhà thơ độc đáo của nền văn học trung đại cuối thế kỉ XIX. Tuy cuộc đời ngắn ngủi, nhiều gian truân nhưng ông đã để lại một sự nghiệp thơ ca bất tử. Sáng tác của ông có hai mảng lớn song hành với nhau : trào phúng và trữ tình. Ở mảng thơ trữ tình, ông có hẳn một đề tài viết về người vợ của mình với tấm lòng yêu thương, trân trọng, biết ơn, trong đó có bài thơ “Thương vợ”. Đây là bài thơ hay và cảm động nhất viết về vợ của ông Tú:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò nơi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững có như không.
Có thể xem “Thương vợ” là lời tri ân sâu sắc của ông Tú dành gửi tới vợ. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục bốn phần: đề, thực, luận, kết. Bài thơ vẽ nên bức chân dung bà Tú chịu thương chịu khó, tần tảo, đảm đang, thương chồng thương con và giàu đức hi sinh; đồng thời thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng vợ và nhân cách cao cả của ông Tú.
Ngay đầu bài thơ, hình ảnh bà Tú đã hiện ra :
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Câu đầu nói về thời gian và không gian làm việc của bà Tú. Bà phải làm việc vất vả “quanh năm”, suốt bốn mùa không ngơi nghỉ, cứ hết ngày này sang ngày khác, hết năm này qua năm khác, không kể nắng mưa. Bà làm việc vất vả quanh năm suốt tháng như thế ở “mom sông”, nơi có mỏm đất nhô ra ven bờ sông chênh vênh, nguy hiểm. Bà phải cật lực buôn bán ở một nơi nguy hiểm như thế để đảm bảo kinh tế gia đình, “nuôi đủ” chồng và con. Câu hai cho thấy gánh nặng gia đình trên vai bà Tú. Đặc biệt, cách nói về gánh nặng gia đình mà bà Tú phải đảm nhiệm thật độc đáo : “năm con với một chồng”. Dường như, ông Tú đang tự đặt mình lên bàn cân và thấy một mình ông “nặng” bằng năm đứa con. Bà Tú phải nuôi ông bằng nuôi thêm năm đứa con nữa. Cách nói ấy gợi ra nụ cười mỉa mai chính mình của ông Tú: hóa ra, mình cũng chỉ là một thứ con cần phải nuôi. Nhận ra mình là một gánh nặng trên đôi vai gầy của vợ cho thấy ông Tú hết sức biết ơn người vợ tần tảo của mình. Hai câu thơ đầu, bằng việc khắc họa thời gian, không gian làm việc của bà Tú và cách đếm con đếm chồng tếu táo của ông Tú, tác giả đã vẽ ra bức chân dung bà Tú tần tảo, đảm đang, chịu thương chịu khó và cho thấy tấm lòng tri ân vợ của nhà thơ.
Hai câu tiếp theo tiếp tục khắc họa hình ảnh bà Tú :
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
Hai câu thơ có cấu tạo đặc biệt: đảo vị ngữ lên đầu câu, nhấn mạnh hai từ láy gợi hình. Bà Tú phải “lặn lội” sớm hôm, chạy vạy ngược xuôi “khi quãng vắng”. Công việc khiến bà Tú phải thức dậy đi làm từ khi mọi người vẫn đang còn ngủ và trở về nhà khi mọi người đều đã sum họp bên gia đình, khi bên ngoài đường đều là những “quãng vắng” có phần nguy hiểm với một người phụ nữ. Câu thơ đầu sử dụng hình ảnh ẩn dụ quen thuộc của ca dao Việt Nam là “con cò”. Trong ca dao, hình ảnh con cò thường tượng trưng cho người lao động, đặc biệt là người phụ nữ lam lũ, nghèo khổ, bất hạnh. Cách sáng tạo hình ảnh “con cò” thành “thân cò” để chỉ bà Tú vừa cho thấy sự lam lũ, vất vả, cực nhọc đến tội nghiệp, đáng thương của bà Tú, vừa cho thấy tình thương mà ông Tú dành cho bà. Chẳng những phải vất vả thức khuya dậy sớm mà bà Tú còn phải chịu những khó khăn chồng chất trong công việc buôn bán. Khi chợ đã đông, đã lắm kẻ bán người mua, bà không tránh khỏi phải chịu những điều tiếng kêu ca, phàn nàn “eo sèo” của khách hàng. Cả hai câu thơ, với việc sử dụng phép đối, phép đảo và những từ láy gợi hình cùng với hình ảnh ẩn dụ quen thuộc, nhà thơ đã khắc họa những vất vả, khổ cực của bà Tú, từ đó gợi ra hình ảnh một người vợ lam lũ, chịu thương chịu khó vì chồng con. Qua đó cũng cho thấy sự thấu hiểu, tình yêu thương của ông Tú với người vợ tảo tần.
Hai câu luận vẫn là hình ảnh bà Tú :
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”.
Hai câu thơ mà có đến hai thành ngữ để nói về bà Tú. “Một duyên hai nợ” là thành ngữ cho thấy nỗi vất vả của bà: chỉ có một cái “duyên” may mắn với ông Tú mà bà lại chịu đến “hai nợ”, hai gánh nặng là chồng và con. Nhưng bà không hề kêu ca, phàn nàn, không than trời kêu đất mà vui vẻ chấp nhận như đó là số phận của mình, “âu đành phận”. Nỗi vất vả và đức hi sinh của bà Tú không chỉ có thế. Dù phải “năm nắng mười mưa”, đi trưa về tối thì bà vẫn “dám quản công”, bà không kể công lao, không quản ngại gian khó. Bà chịu đựng hi sinh tất cả để lo cho gia đình, bà không nghĩ gì cho riêng bản thân mình. Hai câu luận này, bằng phép đối và vận dụng sáng tạo thành ngữ, nhà thơ đã hoàn thành nốt bức chân dung về phẩm cách cao quý của bà Tú : lòng yêu thương chồng con và đức hi sinh cao cả. Ở hai câu thơ này, giọng thơ chùng xuống mang âm hưởng dằn vặt, vật vã, gợi ra một tiếng thở dài nặng nề, chua chát của một ông chồng cảm thấy mình vô dụng, phải để vợ một mình gồng gánh việc gia đình. Điều đó chứng tỏ tấm lòng yêu thương vợ rất mực của Tú Xương.
Nếu như sáu câu đầu là bức chân dung bà Tú: tần tảo, lam lũ, chịu thương chịu khó, yêu chồng thương con và giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha được vẽ bằng tấm lòng yêu thương, trân trọng vợ hết mực của ông Tú thì đến hai câu cuối, ông đã mượn lời bà Tú để cất lên tiếng chửi :
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Trong câu thơ, tác giả sử dụng ngôn ngữ đời thường như “cha mẹ” để phê phán “thói đời” khiến bà Tú phải chịu nhiều vất vả. “Thói đời” ở đây chính là thói quen phổ biến trong xã hội phong kiến: người chồng theo đuổi nghiệp nho, chỉ biết ăn học và thi cử, trong khi người vợ phải một mình gánh vác kinh tế gia đình, chèo chống giang sơn nhà chồng. Không chỉ dừng lại ở việc phê phán thói đời đen bạc, tác giả còn tự trách mình là “chồng hờ hững”, một người chồng vô dụng, không giúp được gì cho vợ mà còn sống dựa vào vợ. Có lẽ vì quá tự giận mình nên ông Tú đã dùng lời lẽ mạnh mẽ để tự chửi mình là “chồng hờ hững”. Tuy nhiên, một người biết nhận ra và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của vợ, đồng thời tự nhận khuyết điểm và lên án bản thân một cách gay gắt như vậy, chắc chắn không phải là người “hờ hững”. Là một nhà Nho với lòng tự trọng cao, sống trong xã hội trọng nam khinh nữ, nhưng ông vẫn thể hiện sự kính trọng sâu sắc đối với vợ mình, thậm chí còn tự nhận khuyết điểm một cách chân thành. Điều này cho thấy ông Tú là một người có nhân cách đáng kính trọng. Hai câu thơ cuối bài, với ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, đậm chất khẩu ngữ đời thường, tác giả bộc lộ nỗi xót xa vì phải để vợ nuôi mình, trở thành gánh nặng cho vợ, đồng thời cũng thể hiện nhân cách cao đẹp của ông Tú.
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, có nhiều bài thơ viết về người vợ, nhưng chỉ có Tú Xương là người nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của vợ mình ngay trong cuộc sống đời thường và viết về bà khi bà còn sống. Có thể nói, dù cuộc sống có vất vả, cực khổ, nhưng được chồng trân trọng, yêu thương và ngợi ca như vậy, bà Tú chắc hẳn cũng cảm thấy ấm lòng và tự hào với cuộc đời. Bài thơ, với việc sử dụng sáng tạo ngôn ngữ và thi liệu văn hóa dân gian, kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố trào phúng và trữ tình, Tú Xương đã mang đến cho người đọc một cái nhìn tiến bộ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ.
“Thương vợ” là bài thơ viết về người vợ hay và cảm động nhất của Tú Xương. Bài thơ đã khắc họa chân dung bà Tú với những phẩm chất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam: tần tảo, đảm đang, chịu thương chịu khó, yêu chồng thương con và giàu đức hi sinh, lòng vị tha. Qua đó, tác giả cũng thể hiện tình yêu thương, sự trân trọng sâu sắc dành cho vợ và nhân cách cao cả của mình. Đọc xong bài thơ, không ai không cảm mến bà Tú và xúc động trước tình cảm chân thành mà ông Tú dành cho vợ. Chắc chắn rằng, bất kỳ người vợ nào cũng sẵn sàng chịu đựng vất vả, khó nhọc mà vẫn luôn vui vẻ nếu có được người chồng biết yêu thương và trân trọng mình như ông Tú. Cách nhìn nhận về thân phận người phụ nữ trong bài thơ khiến người đọc phải suy ngẫm về người vợ, người mẹ của mình, từ đó thêm yêu thương, trân trọng và biết ơn họ.
Bài làm mẫu 3
Hình ảnh người phụ nữ luôn là chủ đề bất tận trong thi ca Việt Nam. Tuy nhiên, những tác phẩm viết về người vợ bằng tình cảm chân thành của người chồng lại rất hiếm hoi, đặc biệt là những bài thơ “tế sống” vợ mình. Trần Tế Xương, hay còn gọi là Tú Xương, là một trong số ít những người đã đưa hình ảnh người vợ vào thơ ca với sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và trào phúng. Sinh ra trong thời kỳ giao thời đầy biến động, Tú Xương là một nhà nho thông minh, ham học nhưng lại gặp nhiều lận đận trong thi cử. Ông nổi tiếng với hai mảng thơ trữ tình và trào phúng, mang đậm nét châm biếm sắc sảo, phản ánh tâm huyết của ông với đất nước và cuộc đời. Được mệnh danh là nhà thơ trào phúng xuất sắc nhất cuối thế kỷ XIX, Tú Xương để lại nhiều tác phẩm thơ Nôm đặc sắc, trong đó nổi bật là bài thơ “Thương vợ”. Bài thơ không chỉ thể hiện tình yêu thương, sự trân trọng mà còn là nỗi ăn năn của ông trước sự hy sinh thầm lặng của người vợ.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
“Thương vợ” là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về người vợ của mình. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm với ngôn từ giản dị nhưng giàu hình ảnh, không chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà còn là tiếng lòng đầy xót xa của Tú Xương – một nạn nhân của xã hội phong kiến, nơi con người bị biến thành kẻ vô dụng đối với chính bản thân và gia đình. Qua bài thơ, người đọc cũng thấy được đức hy sinh cao cả của người phụ nữ xưa, những người luôn một lòng vì chồng con và gia đình.
Mở đầu tác phẩm, Tú Xương giới thiệu về hoàn cảnh và công việc mưu sinh vất vả của bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Mạch cảm xúc của bài thơ được mở ra với bức tranh toàn cảnh về cuộc sống lam lũ của bà Tú. Tác giả sử dụng cụm từ “quanh năm” để diễn tả sự vất vả triền miên, ngày này qua tháng khác, không ngừng nghỉ của người phụ nữ. Địa điểm “mom sông” – nơi chênh vênh, nguy hiểm – lại chính là nơi bà Tú phải mưu sinh hàng ngày. Sự kết hợp giữa thời gian dài đằng đẵng và không gian hiểm trở càng làm nổi bật hình ảnh người phụ nữ tần tảo, hết lòng vì gia đình. Với giọng thơ hóm hỉnh và tài năng trào phúng, Tú Xương đã lên án xã hội phong kiến, nơi biến những người đàn ông thành kẻ vô dụng, sống dựa vào vợ.
“Trống hầu vừa dứt, bố lên thang
Hỏi ra quan ấy ăn lương … vợ”
(Quan tại gia – Trần Tế Xương)
Gánh nặng trên vai bà Tú càng thêm chồng chất khi bà phải trở thành trụ cột chính trong gia đình. Từ “đủ” vừa thể hiện số lượng, vừa thể hiện chất lượng cuộc sống mà bà Tú mang lại. Cách đặt hai từ số đếm “năm” và “một” tưởng chừng khập khiễng nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc. Tú Xương tự chế giễu mình khi so sánh bản thân với năm người con, ngầm nâng cao vị thế của người vợ. Cấu trúc “năm-một” cùng từ “với” chất chứa nỗi hổ thẹn của người chồng phải sống dựa vào vợ. Hai câu thơ mở đầu không chỉ ca ngợi đức tính chịu thương chịu khó của bà Tú mà còn thể hiện sự biết ơn và xót xa của Tú Xương.
Thấu hiểu nỗi vất vả của vợ, Tú Xương liên tưởng đến hình ảnh con cò trong ca dao:
“Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Để cực tả nỗi khổ tâm của bà Tú, Tú Xương viết:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Tú Xương sử dụng hình ảnh “thân cò” để đồng nhất thân phận bà Tú với hình ảnh mỏng manh, nhỏ bé của con cò. Từ “thân” nghe thật cay đắng, gợi lên sự tội nghiệp, nhọc nhằn. Cụm từ “khi quãng vắng” không chỉ gợi lên không gian heo hút, nguy hiểm mà còn diễn tả nỗi cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ. Nghệ thuật đảo ngữ và từ láy “lặn lội” nhấn mạnh sự vất vả, lam lũ của bà Tú. Câu thơ tiếp theo miêu tả cảnh tấp nập, ồn ào nơi chợ búa, nơi bà Tú phải vật lộn với cuộc sống mưu sinh. Hai câu thơ đối nhau về từ ngữ nhưng cùng làm nổi bật sự gian truân, nhọc nhằn của người phụ nữ.
Đến với hai câu thơ tiếp theo, Tú Xương như hóa thân vào nhân vật trữ tình để mượn lời vợ ca ngợi những hy sinh thầm lặng mà bà dành cho chồng con:
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.”
Theo quan niệm phong kiến, “duyên” và “nợ” là hai khái niệm thiêng liêng về mối quan hệ vợ chồng, được xem như sợi chỉ hồng do ông tơ bà nguyệt se duyên. Tuy nhiên, trong thơ Tú Xương, hai từ này mang một sắc thái nặng nề, như một lời than thở khi duyên chỉ có một mà nợ lại gấp đôi. Việc sử dụng hai thành ngữ song song “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa” không chỉ tạo sự đối lập về từ ngữ mà còn làm nổi bật nỗi khổ tâm của bà Tú. Sự đối lập này còn thể hiện tài năng văn chương điêu luyện của Tú Xương. Đức hy sinh cao cả của bà Tú được thể hiện qua cụm từ “âu đành phận” và “dám quản công”, phản ánh sự cam chịu và tấm lòng vì chồng con. Bằng cách kết hợp thành ngữ và nghệ thuật đảo ngữ tinh tế, Tú Xương đã khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ Việt Nam truyền thống với đầy đủ phẩm chất tần tảo, hy sinh.
Vì thương vợ, thương cho thân phận người phụ nữ phải gánh vác trọng trách gia đình, Tú Xương đã tự trách mình. Hai câu thơ cuối như một tiếng chửi vừa cay đắng vừa phẫn nộ trước những định kiến khắc nghiệt:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Mạch cảm xúc của bài thơ chuyển biến đột ngột. Tú Xương không còn ẩn mình sau những dòng thơ ca ngợi vợ mà xuất hiện để nói thay, để trách mình và trách phận đời của bà Tú. “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” là lời giận dữ với xã hội thối nát lúc bấy giờ. Đằng sau tiếng chửi đời đầy dứt khoát ấy là nỗi đau xót của một con người. Tú Xương chửi “thói đời” nhưng cũng là tự chửi mình, một người đàn ông không thể giúp vợ mà lại trở thành kẻ ăn bám. Ông coi mình là người “hờ hững” trong trách nhiệm làm chồng, làm cha. Tuy nhiên, nhìn lại, Tú Xương đáng thương hơn đáng trách, bởi chính xã hội đã đẩy ông vào bước đường cùng. Hai câu thơ kết thúc là lời tự trách mình và lên án xã hội, đồng thời khẳng định tình cảm sâu sắc của ông dành cho vợ. Dù “ăn lương vợ”, ông vẫn luôn biết ơn và trân trọng người phụ nữ của mình. Bài thơ kết thúc với sự kết hợp giữa nỗi buồn và nét hài hước, để lại ấn tượng sâu sắc.
Tấm lòng thương vợ của Tú Xương vẫn là tấm gương sáng cho nhiều thế hệ. Bài thơ mang giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện sự yêu thương, trân trọng và thấu hiểu những hy sinh của người phụ nữ cho gia đình. Đồng thời, tác phẩm cũng là tiếng nói phê phán sự bất công của xã hội phong kiến thối nát.
Như vậy, “Thương vợ” là một thi phẩm giàu tính nhân văn. Với ngôn từ bình dị mà trữ tình, pha chút trào phúng, Tú Xương đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh người phụ nữ Việt Nam truyền thống – vừa mộc mạc, vừa mạnh mẽ. Có thể nói, Tú Xương là nhà thơ viết về vợ hay và cảm động nhất, để lại cho đời những áng văn chân thành và đầy giá trị.
6. Phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương: Tình yêu và sự hy sinh trong thơ ca trung đại
Bài làm mẫu 1
Thơ ca Việt Nam thời Trung đại thường được các nhà nho sử dụng để dạy đời, tỏ chí. Họ thường thể hiện chí làm trai, nợ công danh, hoài bão kinh bang tế thế, hoặc những ưu tư về thời cuộc, ít khi khai thác đời sống tình cảm riêng tư, đặc biệt là viết về người phụ nữ. Tuy nhiên, trong thế kỷ XIX, Nguyễn Khuyến và Tú Xương đã làm được điều đó. Trong đó, Tú Xương nổi bật hơn cả với những bài thơ trào phúng sâu sắc lên án xã hội thực dân nửa phong kiến, đồng thời để lại nhiều tác phẩm trữ tình, đặc biệt là về người vợ của mình. “Thương vợ” là một trong những bài thơ như vậy, vừa sâu sắc, đầy tình cảm, vừa hóm hỉnh, vui tươi.
Theo sách vở ghi lại, bà Tú từng làm nghề buôn gạo, “bà Tú buôn gạo hàng đội hàng thùng chứ không có vốn buôn hàng thuyền” (Xuân Diệu).
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Bà Tú hiện lên trong bài thơ với công việc buôn bán ở mom sông. “Quanh năm” là khoảng thời gian dài đằng đẵng, ngày này qua ngày khác, người mẹ, người vợ ấy vẫn tần tảo sớm hôm để nuôi chồng, nuôi con. Bà không có cửa hàng hay quán xá mà buôn bán ở “mom sông”, nơi đất nhô ra giữa dòng nước, đầy rẫy hiểm nguy, ba bề là nước, chênh vênh và không ổn định. Điều này gợi lên sự bấp bênh trong công việc mưu sinh của bà. Bà không chỉ bán một hai ngày mà quanh năm, từ tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Câu thơ đầu tiên khắc họa hình ảnh bà Tú tần tảo, chịu thương chịu khó, vượt qua mọi khó khăn. “Nuôi đủ năm con với một chồng” cho thấy dù công việc vất vả, bà vẫn lo đủ cho sáu miệng ăn. Không chỉ nuôi những đứa con thơ dại, bà còn phải lo cho chồng, chuẩn bị tiền bạc mỗi lần ông đi thi. Chi phí cho chồng đi thi đôi khi còn nhiều hơn chi phí nuôi con. Nhà thơ từng lên tiếng tố cáo bọn quan lại, nhưng giờ đây, ông tự nhận mình là người nhỏ bé, được bà Tú chăm lo. Hai câu thơ đầu cho thấy sự vất vả nhưng đầy đảm đang, gánh vác và tình yêu thương chồng con của bà. Đồng thời, đằng sau sự vất vả ấy là lòng biết ơn sâu sắc của chồng và con đối với bà.
Hình ảnh bà Tú tiếp tục hiện lên chân thực và sâu sắc trong hai câu thơ tiếp theo:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Trong hai câu thơ này, hình ảnh nổi bật và gần gũi nhất chính là “thân cò”. Trong thơ Tú Xương, con cò không chỉ là con cò mà được diễn đạt qua từ “thân cò”. “Lặn lội thân cò” thể hiện sự vất vả, đơn độc khi kiếm ăn một mình, đặc biệt là ở nơi “quãng vắng”, vắng vẻ và đầy hiểm nguy. “Thân cò” ấy còn phải “eo sèo”, giành giật trong buổi chợ đông đúc để kiếm miếng cơm manh áo cho chồng con. “Thân cò” lặn lội, lam lũ cả đời chính là biểu tượng của người phụ nữ tần tảo, chịu thương chịu khó. Nghệ thuật đảo ngữ được sử dụng tài tình, làm nổi bật hình ảnh “thân cò” lặn lội nơi quãng vắng, eo sèo giữa buổi đò đông. Qua bốn câu thơ đầu, hình ảnh bà Tú hiện lên là người phụ nữ vất vả, hy sinh vì chồng con.
Dù gian khổ là vậy, bà Tú không một lời oán trách mà luôn kiên cường chịu đựng:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Tú Xương dùng từ ngữ chân thực mà sâu sắc để nói về cuộc sống gia đình. “Duyên” và “nợ” là hai khái niệm đối lập, chỉ hạnh phúc và khổ đau trong hôn nhân. Cuộc đời bà Tú chỉ có “một duyên” nhưng lại mang “hai nợ”. Dù vậy, bà vẫn “âu đành phận”, không một lời than trách. Hình ảnh người phụ nữ ấy hiện lên với sự tần tảo, vất vả: “Năm nắng mười mưa dám quản công”. Sự vất vả ấy được chấp nhận như một lẽ đương nhiên. Tú Xương sử dụng số từ một cách khéo léo, vừa tăng dần vừa đối nhau: một, hai, năm, mười, gợi lên những khó khăn chồng chất. Câu thơ cũng thể hiện sự kiên cường và phi thường của người vợ, người mẹ, luôn gánh vác mọi khó khăn để lo cho chồng con.
Sau tất cả những khó khăn, hình ảnh người chồng hiện lên tuy không giúp được nhiều nhưng rất mực yêu thương và tài hoa:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Bà Tú dù vất vả nhưng không hề chửi chồng. Hai câu kết là lời chửi đầy chua xót mà Tú Xương thay vợ dành cho chính mình. Ông tự trách mình là người chồng “hờ hững”, không giúp được gì cho vợ, để bà phải vất vả kiếm sống. Bà Tú không những không được nhờ vả chồng mà còn phải nuôi cả ông. Tú Xương còn chửi cả xã hội bất công, nơi không cho người ta cơ hội thi cử chính đáng để đỡ đần gia đình. Đằng sau lời chửi ấy là một người chồng yêu thương vợ sâu sắc, tài hoa và giàu lòng tự trọng.
Bài thơ là tiếng lòng chân thành của Tú Xương dành cho người vợ tần tảo của mình. Qua đó, nhân cách cao đẹp của ông cũng được thể hiện rõ nét: dám chia sẻ sự vất vả với vợ, xấu hổ vì không thể giúp đỡ bà, và nhận mình là “quan ăn lương vợ”. Tài năng nghệ thuật của Tú Xương cũng được thể hiện một cách đáng trân trọng.
Bài làm mẫu 2
Có người nhận xét rằng, nụ cười của Nguyễn Khuyến mang vẻ thâm trầm, hóm hỉnh, còn nụ cười của Tú Xương lại đầy cay đắng, “cười ra mảnh sành”. Bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương cũng mang chất hài hước nhưng ẩn chứa sự chua chát:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông.
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên, hai nợ, âu đành phận
Năm nắng, mười mưa, dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Thơ Đường luôn cô đọng, lời ít mà ý nhiều. Trong bài “Thương vợ”, ta hãy lắng nghe Tú Xương bày tỏ nỗi lòng chua chát của mình.
Hãy đọc hai câu thơ đầu:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Hai câu thơ đầu tiên đi thẳng vào việc miêu tả sự vất vả, khó nhọc và đảm đang của bà Tú. “Quanh năm buôn bán ở mom sông” – nhà thơ đã xác định địa điểm buôn bán của vợ mình là nơi “mom sông”, một nơi lầy lội, cheo leo và đầy nguy hiểm. Đó là một xóm chợ nghèo ven sông Vị Hoàng, quê hương của tác giả. Rõ ràng, đây là nơi không phù hợp với những người phụ nữ chân yếu tay mềm. Thế nhưng, bà Tú vẫn gắn bó với nơi này, vẫn “quanh năm buôn bán”, cuộc đời bà dường như gắn liền với sự chênh vênh, khó khăn. Dù vậy, bà vẫn “nuôi đủ năm con với một chồng”. Từ “đủ” ở đây có thể hiểu theo nhiều cách: có thể là sự đầy đủ, cũng có thể là sự chật vật để lo cho cả gia đình. Điều đáng chú ý là cách nhà thơ sử dụng số từ “năm” và “một” để nhấn mạnh gánh nặng trên vai bà Tú. Câu thơ mang đậm chất trào phúng, khiến người đọc bật cười nhưng cũng không khỏi xót xa, thương cảm cho người phụ nữ tần tảo ấy.
Người phụ nữ tảo tần xưa nay thường được ví như con cò lặn lội, không quản nắng mưa. Tú Xương cũng đã ví vợ mình như thân cò:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Sử dụng nghệ thuật đảo ngữ với các từ gợi cảm “lặn lội” và “eo sèo”, nhà thơ một lần nữa nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú. Hình ảnh con cò khiến ta liên tưởng đến câu ca dao quen thuộc:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”
“Tiếng khóc nỉ non” – câu ca dao nghe mà xót xa cả lòng.
Nếu con cò trong ca dao một mình “gánh gạo nuôi chồng” thì bà Tú cũng một mình đối mặt với cuộc sống khắc nghiệt, chống chọi với nỗi cô đơn. Nhưng, nếu cò kia đã “khóc” thì bà Tú lại cất lên tiếng than não nề:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng, mười mưa dám quản công”
Bà Tú đã cất tiếng than? Không, đây thực chất là lời than của Tú Xương dành cho vợ mình. “Một duyên, hai nợ, ba tình” – những công thức mang đậm nét Á Đông xưa kia nói lên những mối phiền lụa trong cuộc đời lại được đặt vào bài thơ này. Cái sợi dây ràng buộc vô hình không thể tháo gỡ đã buộc chặt ông Tú với bà Tú. Hóa ra, nỗi khổ của bà Tú là do duyên, là vì bà lấy phải ông Tú làm chồng (!) Nhưng bà vẫn không hề phàn nàn, vẫn nhẫn nại và cam chịu:
“Năm nắng, mười mưa dám quản công”. Các số từ một lần nữa được sử dụng hiệu quả để diễn tả nỗi nhọc nhằn của bà Tú. Nói cách khác, Tú Xương muốn động viên vợ mình bằng một sự xót xa thầm kín.
Khi viết “Thương vợ”, Trần Tế Xương không chỉ bày tỏ tình thương dành cho vợ mà còn thể hiện nỗi xót xa cho chính mình và thế thái nhân tình. Vì thế, hai câu thơ cuối không còn là tiếng cười hài hước chua chát mà là lời chửi đầy phẫn uất:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Tác giả chửi “thói đời”, tức là chửi cái thời đại, cái chế độ đã biến những người tài năng như ông thành gánh nặng cho gia đình. Tuy nhiên, trong tiếng chửi ấy vẫn ẩn chứa chất hài hước. Ông chửi “thói đời” nhưng cũng chửi chính mình. Hiếm có ai lại tự nhận mình là nguyên nhân của nỗi khổ của vợ như vậy.
Đọc “Thương vợ”, ta cảm thông với nỗi khổ của người phụ nữ xưa, càng thêm yêu quý những người mẹ, người chị của mình ngày nay. Điều đáng quý còn đọng lại sau bài thơ chính là hình ảnh bà Tú – một người phụ nữ dân dã, thân thuộc và rất đỗi Việt Nam. Bà là biểu tượng cho những người vợ, người mẹ tần tảo, lam lũ, suốt đời cam chịu và hy sinh vì chồng, vì con, vì hạnh phúc giản dị của gia đình.
Đọc “Thương vợ”, ta cũng cảm thông với nỗi khổ của Tú Xương, một nhà thơ tài năng nhưng “sinh bất phùng thời”, bất lực trước nỗi vất vả của vợ. Ông xót xa khi phải chứng kiến cảnh mình trở thành gánh nặng cho người vợ hiền, người đã quá vất vả vì đông con, phải lặn lội kiếm sống giữa buổi “đò đông”.
7. Phân tích bài thơ Thương Vợ của Tú Xương: Tình yêu và sự hy sinh trong thơ ca trung đại
Bài làm mẫu 1
Tác phẩm “Thương vợ” thuộc thể loại thơ trữ tình, thể hiện tình yêu thương và sự kính trọng đối với người phụ nữ chăm chỉ, đảm đang, và giàu đức hy sinh. Tác giả đã khắc họa hình ảnh người vợ tần tảo, trở thành biểu tượng tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống, vừa tháo vát vừa giàu lòng hy sinh.
Nhắc đến Tú Xương là nhắc đến sự kết hợp độc đáo giữa tính “trào phúng và trữ tình”. Giọng thơ của ông mang đậm nét mỉa mai, chua chát, nhưng ẩn sâu trong đó là nỗi đau trước thực trạng xã hội. Bên cạnh giọng điệu chua cay ấy, Trần Tế Xương còn là người tiên phong trong việc đưa đời sống cá nhân và gia đình vào thơ ca. Những bài thơ trữ tình của ông tràn đầy tình cảm gia đình, song hành với nỗi đau vì cảnh nghèo khó, mang đến cho thơ ca Việt Nam những nét mới mẻ và sâu sắc. “Thương vợ” là một trong những bài thơ tiêu biểu thuộc thể loại này.
Bài thơ mở đầu một cách ấn tượng với hình ảnh thời gian “quanh năm” khép kín, gói gọn trong không gian nhỏ hẹp “mom sông”, nơi người phụ nữ tần tảo vì chồng con:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Hơn thế nữa, danh tiếng của bà Tú xứng đáng với “cành vàng”. Thế nhưng, trong cảnh lao động vất vả, phải buôn bán nơi chợ đông đúc, bà Tú vẫn chỉ “nuôi đủ năm con với một chồng”. “Nuôi đủ” ở đây có thể hiểu là nuôi đầy đủ, không thiếu thốn, hoặc chỉ vừa đủ. Dù hiểu theo nghĩa nào, gánh nặng trên vai bà Tú vẫn quá lớn. Nghĩa vụ này lẽ ra thuộc về Tú Xương, nhưng trong buổi suy tàn của Nho học, ông chỉ biết than thân trách phận, như trong bài “Cảnh cùng quẫn”.
Bà Tú, không biết từ lúc nào, đã hóa thân thành “thân cò” lặn lội nơi sóng nước, nơi quãng vắng thưa người, gợi lên nỗi đau thân phận:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Câu thơ thứ ba, với nghệ thuật ẩn dụ, gợi nhớ đến hình ảnh con cò trong ca dao:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
(Ca dao)
Bà Tú có lẽ không khóc nỉ non như người đàn bà trong ca dao, nhưng ai dám chắc rằng bà chưa từng khóc trong lòng, nơi chốn “eo sèo” buổi “đò đông”? Danh phận của bà Tú, giống như thân cò nơi quãng vắng, gợi lên sự cô đơn, vất vả, và nỗi đau thầm kín.
Tú Xương đã “gợi nhờ” gánh nặng lên vai người vợ, trong khi bản thân ông lại mải mê vui chơi, hưởng lạc, và “hư hỏng”.
Biết thuốc lá, biết chè tàu
Cao lâu biết vị hồng lâu biết mùi
(Hỏi Ông Trời)
Tú Xương đã bày tỏ sự ái ngại, và từ đó, sự cảm thông của ông đạt đến đỉnh điểm của lòng thương yêu và tự trách bản thân vì đã mang đến cho vợ một mối duyên nợ không trọn vẹn. Câu thơ đi sâu vào luận lý về chữ “duyên” với nhiều tầng ý nghĩa:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Duyên, dù hiểu theo nghĩa dân gian hay triết lý Phật giáo, hoặc trong ngữ cảnh này, đều thể hiện sự thiệt thòi của người vợ. Nguyên nhân hay sự tiền định đều xuất phát từ chữ “nợ”, và Tú Xương đã sử dụng phép đối một cách tài tình. Dù duyên chỉ một mà nợ đến hai, hạnh phúc chồng mang lại quá ít, còn gánh nặng lại quá nhiều, nhưng người phụ nữ ấy vẫn “âu đành phận”.
Tú Xương tự trách mình:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Chữ “bạc” trong câu thơ của Tú Xương là lời tự trách mình, chửi mình, nhưng lại rất chân thành. Ông đi đến chỗ chế giễu sự “vô tích sự” của bản thân. Ta cũng từng nghe Tú Xương chế giễu cái “chức quan” tại gia, suốt năm chỉ biết ra “chiếu chỉ” cho con và sống nhờ lương vợ.
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ
Đem chuyện trăm năm trở lại bàn.
(Quan tại gia)
Thơ Tú Xương vừa cay độc lại chân thành, vừa trào phúng lại trữ tình, phong lưu mà chung thủy. Ông chửi đời mà cũng chửi mình, cười mình mà cũng khóc mình, trong nỗi đau của công danh lận đận, thân phận bất hạnh, và cảnh cùng đường của cuộc sống nghèo khó.
Giọng thơ Tú Xương trong “Thương vợ” trào dâng một tình yêu thương tha thiết dành cho vợ. Ngôn ngữ thơ giản dị, đậm chất ca dao, hình ảnh gợi mở nhiều liên tưởng sâu sắc. Điểm độc đáo nhất của bài thơ là hình tượng người phụ nữ hóa thân thành “thân cò”, gợi lên nỗi niềm thương cảm và sự chua chát. Thành công lớn nhất của bài thơ là xây dựng được hình tượng nghệ thuật đột phá, bất ngờ và mới mẻ. Đó cũng chính là việc đưa người phụ nữ vào thơ ca, với hình tượng đạt đến mức mẫu mực và thấm đẫm chất nhân văn. Hình ảnh người vợ thân yêu của ông đã chiếm trọn tình cảm của độc giả cho đến tận ngày nay! Liệu công lao ấy của Tú Xương có đủ để bù đắp cho cái tội “hờ hững” của ông chăng?
Bài làm mẫu 2
Tú Xương là bút danh của Trần Tế Xương, một nhà thơ tài hoa nhưng lận đận trên con đường khoa cử: "Tám khoa chửa khỏi phạm trường quy". Dù chỉ sống 37 năm, sự nghiệp thơ ca của ông lại bất tử. Quê ông ở làng Vị Xuyên, thành phố Nam Định, nơi người dân tự hào với câu nói: "Ăn chuối ngự, đọc thơ Xương".
Tú Xương để lại khoảng 150 bài thơ Nôm, cùng một số bài phú và văn tế. Thơ ông đa dạng, từ trào phúng đến trữ tình, thậm chí kết hợp cả hai. Giọng thơ trào phúng của ông sắc bén, cay độc nhưng cũng đầy xót xa. Ông được xem là bậc thầy của thơ trào phúng trong nền văn học cận đại Việt Nam.
Bài thơ ca ngợi những phẩm chất cao quý của người vợ, người phụ nữ đảm đang, chịu thương chịu khó vì hạnh phúc gia đình. Hai câu đầu giới thiệu bà Tú, một người phụ nữ tần tảo, quanh năm buôn bán ở "mom sông", nơi đầu chợ bến đò. Dù không có cửa hàng lớn, vốn liếng ít ỏi, bà vẫn "nuôi đủ năm con với một chồng". Ông Tú, dù đậu tú tài, nhưng không làm quan, chỉ sống nhờ vào lương vợ. Gia cảnh ấy được miêu tả qua những con số "năm" (con) và "một" (chồng), thể hiện sự đông đủ và gánh nặng trên vai bà Tú.
Hai câu tiếp theo mượn hình ảnh "thân cò" từ ca dao để khắc họa thân phận lam lũ, vất vả của bà Tú. Cò kiếm ăn nơi đầu ghềnh cuối bãi, còn bà Tú lặn lội nơi "quãng vắng", "mom sông". Cảnh buôn bán nơi đò đông, cãi vã giành giật để kiếm miếng cơm manh áo cho chồng con được miêu tả sinh động qua từ láy "lặn lội" và "eo sèo". Hình ảnh "thân cò" vừa sáng tạo vừa gần gũi, làm nổi bật cuộc đời đầy mồ hôi và nước mắt của người phụ nữ.
Tác giả khéo léo vận dụng thành ngữ "một duyên hai nợ" và "năm nắng mười mưa" để diễn tả sự cam chịu và đức hy sinh thầm lặng của bà Tú. Cụm từ "âu đành phận" và "dám quản công" như một tiếng thở dài, thể hiện sự chấp nhận số phận và tấm lòng lo toan vì gia đình. Tú Xương sử dụng số từ tăng cấp (1-2-5-10) để nhấn mạnh sự vất vả và đức hy sinh cao cả của người vợ:
"Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công".
Tóm lại, bà Tú là hiện thân của cuộc đời vất vả, lận đận, nhưng cũng là biểu tượng của những đức tính tốt đẹp: tần tảo, đảm đang, nhẫn nại. Tất cả những điều đó đều vì hạnh phúc của chồng con. Nhà thơ bày tỏ lòng biết ơn và sự kính trọng sâu sắc.
Câu thơ thứ bảy là một tiếng chửi đầy cay đắng và phẫn nộ: "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc". "Thói đời" ở đây là xã hội nửa phong kiến, nửa thực dân, nơi đạo đức suy đồi và lòng người đảo điên. Tú Xương tự trách mình là kẻ "ăn ở bạc" vì không giúp được gì cho vợ con. Ông từng mỉa mai chính mình trong bài thơ: "Vợ lăm le ở vú - Con tấp tểnh đi bồi - Khách hỏi nhà ông đến - Nhà ông đã bán rồi".
Câu thơ cuối cùng chứa đựng nỗi đau chua xót: "Có chồng hờ hững cũng như không?". Cách nói "như không" thể hiện sự ngao ngán, buông xuôi. Nỗi buồn tâm sự của Tú Xương gắn liền với nỗi đau thế sự, phản ánh hình ảnh một nhà nho bất đắc chí.
Bài thơ có nét độc đáo riêng, từ nhan đề đến cách vận dụng ca dao, thành ngữ, và cả tiếng chửi. Chất thơ mộc mạc, bình dị nhưng đầy trữ tình. Trong khuôn khổ bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, tác giả đã sử dụng thanh điệu, niêm luật và phép đối một cách chuẩn mực, tự nhiên. Tú Xương vừa tự trách mình, vừa bày tỏ tình thương yêu và lòng biết ơn đối với vợ. Bà Tú là hình ảnh đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam trong một gia đình đông con, nhiều khó khăn. Vì thế, nhiều người cho rằng câu thơ "Nuôi đủ năm con với một chồng" là câu thơ hay nhất trong bài "Thương vợ".
Bài làm mẫu 3
Nhắc đến thơ trào phúng, không thể quên Tú Xương, một giọng thơ đả kích, phê phán sắc bén, cay độc và mạnh mẽ hiếm có. Chế Lan Viên từng nhận xét: “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Tuy nhiên, Trần Tế Xương không chỉ là nhà thơ hiện thực, mà còn là một tâm hồn trữ tình sâu sắc. Người đời nhớ đến ông không chỉ vì chất hiện thực mà còn vì nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, luôn trân trọng nhân cách và mang trong mình nỗi đau khôn nguôi. Ông buồn vì không có tiền giúp người ăn mày, thề độc: “Cha thằng nào có tiếc không cho”. Ông đau đớn trước cảnh nô lệ của đất nước: “Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”.
Ngoài xã hội, Tú Xương luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm. Trong gia đình, ông “thương vợ” nhưng lại tự trách mình vì để vợ phải gánh vác trách nhiệm trụ cột. Ông tự chế giễu vai trò “hờ hững” của mình.
Ngày xưa, các cụ ông thường ngại bộc lộ tình cảm với vợ, nhất là qua văn chương. Thế kỷ XIX, hai nhà thơ cùng quê Nam Định là Nguyễn Khuyến và Tú Xương đã không ngần ngại thể hiện tình yêu thương với vợ ngay khi họ còn sống. Trong đó, “Thương vợ” của Tú Xương là bài thơ nổi tiếng nhất:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Bài thơ nổi bật với hình ảnh hai con người: người vợ tần tảo, giàu đức hy sinh và người chồng biết thông cảm, yêu thương và trân trọng vợ hết mực.
Hai câu đầu giới thiệu công việc và trách nhiệm nặng nề của bà Tú:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Buôn bán vốn là nghề kiếm sống, nhưng việc buôn bán của bà Tú không hề dễ dàng. Bà không có cửa hàng hay quán xá, mà chỉ buôn bán ở “mom sông”, một khoảng đất nhô ra bên bờ sông, có thể biến mất khi nước lên. Công việc này không chỉ vất vả mà còn bấp bênh, thu nhập ít ỏi. Thế nhưng, bà Tú phải theo đuổi công việc này “quanh năm”, từ tháng giêng đến tháng chạp, năm này qua năm khác, không có cơ hội thay đổi hay cải thiện cuộc sống.
Dù công việc vất vả, thu nhập ít ỏi, bà Tú vẫn phải lo cho cả gia đình sáu miệng ăn. Không chỉ năm đứa con, mà còn một ông chồng, người tiêu tốn nhiều hơn cả năm đứa con cộng lại. Mỗi lần ông đi thi, tiền bạc lại đổ lên đầu vợ. Thậm chí, khi ông vui chơi, tiền cũng từ túi vợ mà ra. Thế nhưng, bà Tú luôn lo “đủ” cho gia đình, thể hiện sự đảm đang và tháo vát đáng khâm phục.
Để có được sự đảm đang ấy, bà Tú phải đánh đổi bằng biết bao công sức:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Câu thơ gợi nhớ hình ảnh con cò trong ca dao:
... Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non;
... Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình.
Trong thơ Tú Xương, không phải là con cò mà là thân cò. Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc đời (Thương thay thân phận con rùa/Thân em như chẽn lúa đòng đòng/Thân em như hạt mưa sa...). Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng chất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, quãng vắng thì trào nước mắt.
Nhưng đó là bà Tú trong con mắt của ông Tú, còn với bà không hề có một lời kêu ca phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Những số từ được dùng rất khéo, vừa theo thứ tự tăng dần vừa đối nhau: một, hai, năm, mười, gợi được những khó khăn chồng chất ngày một tăng dần, và sức lực phi thường của người vợ, gánh vác tất cả. Thật là kiên cường nhưng sao mà tội nghiệp! Phần lớn phụ nữ nhờ chồng mà được hưởng niềm sung sướng, còn với bà Tú chỉ là thêm một món nợ cả đời. Nhập thân vào nhân vật, Trần Tế Xương nói hộ những nỗi thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ cái đức hi sinh của người bạn đời. Kết thúc hai câu thơ cũng là sau những khó khăn được đưa ra là lời khẳng định: âu đành phận / dám quản công. Một thái độ dứt khoát, một sự chấp nhận không cần bàn cãi, một cách ứng xử hiển nhiên. Người phụ nữ Việt Nam là vậy, bà Tú Xương là vậy, họ coi “giang sơn nhà chồng” là việc của mình, họ tự nguyện gánh vác không so đo oán than.
Bà chỉ âm thầm chịu đựng, cho nên ông Tú đã trách hộ bà:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Lời thơ như là tiếng chửi. Mà là chửi thật: “Cha mẹ thói đời...”. Không phải là người vợ chịu nhiều vất vả thiệt thòi chửi mà người chồng tự chửi mình đấy thôi. Chữ “hờ hững” nghe sao mà chua chát. Bà Tú lấy phải một ông chồng bạc bẽo, chẳng giúp gì cho gia đình, cho vợ, chẳng làm được trụ cột lại còn để vợ phải nuôi báo cô. Thật là có chồng mà như không có, thậm chí còn khổ hơn không chồng. Câu thư có chút vị đắng trong thơ Lấy lẽ của Hồ Xuân Hương:
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Tóm lại, nổi bật trong bài thơ là hình ảnh bà Tú hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, đảm đang, nhẫn nại quên mình lo toan cho cuộc sống của chồng con.
Có một con người không xuất hiện trực tiếp là ông Tú, những con mắt và trái tim của ông thì luôn luôn hiện hữu. Con mắt ông nhìn thấy rõ mọi nỗi đắng cay cực nhọc hàng ngày, và con tim thì thấu hiểu những nỗi cô đơn, tâm trạng âm thầm chịu đựng của bà. Bài thơ Thương vợ là một bản tự kiểm điểm, tự khiển trách hết sức chân thành và nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi lời thơ như một tiếng thở dài đau xót của một con người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực. Đó là tấm lòng thương yêu cảm phục và biết ơn rất chân thành của người chồng đối với người vợ vì mình mà chịu nhiều đắng cay vất vả.
8. Phân tích tác phẩm 'Thương vợ' của Tú Xương: 13 bài mẫu sâu sắc và đặc sắc
Bài làm mẫu 1
Tú Xương, một nhà thơ trào phúng xuất sắc của nền văn học Việt Nam, không chỉ nổi tiếng với những bài thơ châm biếm sắc sảo, dùng tiếng cười làm vũ khí đả kích những mặt tối của xã hội thực dân nửa phong kiến, mà còn để lại nhiều tác phẩm trữ tình sâu lắng, chứa đựng nỗi niềm của một nhà nho nghèo về tình người và tình đời.
“Thương vợ” là một trong những bài thơ trữ tình xúc động nhất của Tú Xương. Bài thơ không chỉ là lời tâm sự chân thành mà còn phản ánh hiện thực xã hội, thể hiện tình yêu thương sâu sắc của nhà thơ dành cho người vợ tảo tần của mình.
Sáu câu thơ đầu khắc họa hình ảnh bà Tú, một người vợ đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu như bà vợ của Nguyễn Khuyến được miêu tả là người phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc” (câu đối của Nguyễn Khuyến), thì bà Tú hiện lên qua những câu thơ:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”
“Quanh năm buôn bán” gợi lên hình ảnh một cuộc sống bận rộn, không ngơi nghỉ, từ ngày này qua ngày khác. Bà Tú làm ăn ở “mom sông”, nơi mỏm đất chênh vênh giữa dòng nước, một vị trí không ổn định và đầy rủi ro. Hai chữ “mom sông” không chỉ miêu tả nơi làm việc mà còn phản ánh cuộc sống đầy vất vả, khó khăn của bà. Dù vậy, bà vẫn “nuôi đủ năm con với một chồng”, một gánh nặng lớn đè lên đôi vai người phụ nữ.
Gánh nặng gia đình đè nặng lên vai bà Tú. Thông thường, người ta chỉ đếm rau, cá, tiền bạc, nhưng ở đây, Tú Xương lại “đếm” con, “đếm” chồng. Câu thơ mang đậm tính tự trào, ẩn chứa nỗi chua chát về một gia cảnh khó khăn: đông con, chồng lại phải sống nhờ vào lương vợ.
Hai câu thơ đầu đã khắc họa chân thực hình ảnh người vợ tần tảo, đảm đang của Tú Xương.
Phần thực tiếp tục tô đậm chân dung bà Tú, người phụ nữ phải “lặn lội” làm ăn như “thân cò” nơi “quãng vắng”. Ngôn ngữ thơ được tăng cấp, nhấn mạnh sự vất vả của bà. Hình ảnh “thân cò” gợi nhớ đến những câu ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sông…”, “Con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông…”. Qua hình ảnh này, Tú Xương đã khắc họa số phận vất vả, cực nhọc của người phụ nữ trong xã hội cũ:
“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
“Eo sèo” là từ láy tượng thanh, diễn tả sự ồn ào, cãi vã nơi chợ búa. Câu thơ phản ánh cảnh tranh mua tranh bán, sự cạnh tranh khốc liệt để kiếm miếng cơm manh áo. Cuộc sống của bà Tú là một chuỗi ngày “lặn lội” và “eo sèo”, đầy mồ hôi và nước mắt.
Hai câu luận tiếp theo, Tú Xương vận dụng thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa” một cách sáng tạo, tạo nên sự đối xứng hài hòa, đậm chất dân gian:
“Một duyên hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa dám quản công.”
“Duyên” là duyên số, duyên phận, còn “nợ” là gánh nặng cuộc đời mà bà Tú phải gánh vác. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho những khó khăn, vất vả. Các số từ “một”, “hai”, “năm”, “mười” được sử dụng tăng tiến, nhấn mạnh sự hy sinh thầm lặng của bà Tú. Bà là người phụ nữ chịu thương, chịu khó, luôn vì hạnh phúc của chồng con. Giọng thơ mang đậm nỗi xót xa, thương cảm.
Tóm lại, sáu câu thơ đầu đã khắc họa chân thực và cảm động hình ảnh bà Tú, người vợ đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó, luôn hy sinh thầm lặng vì gia đình. Tú Xương đã thể hiện tài năng điêu luyện trong việc sử dụng ngôn ngữ và xây dựng hình ảnh. Các từ láy, số từ, phép đối, thành ngữ và hình ảnh “thân cò” đã tạo nên sức hấp dẫn và ấn tượng sâu sắc.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Tú Xương tự trách mình vì sống nhờ vào lương vợ, mà lại “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha của ông dường như vô dụng, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách ấy chứa đựng nỗi chua xót sâu sắc. Tú Xương là người có tài văn chương, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống trong một xã hội “dở Tây, dở ta”, chữ Nho không còn giá trị, ông không chạy theo thời thế để vinh thân phì gia, mà chọn cách sống thanh bạch, không xu nịnh.
Hai câu kết là tiếng lòng đầy tâm sự và nỗi buồn thế sự. Đó là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương mình, nỗi đau của một người thất thế trong thời cuộc đổi thay.
Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày của những người buôn bán nhỏ. Các chi tiết nghệ thuật được chọn lọc kỹ lưỡng, vừa mang tính cá thể (bà Tú với “năm con, một chồng”), vừa có tính khái quát cao (hình ảnh người phụ nữ truyền thống). Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm: thương vợ, thương mình, và nỗi đau về thời cuộc. “Thương vợ” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương, khắc họa hình ảnh người vợ, người phụ nữ truyền thống với những đức tính tốt đẹp, gần gũi với hình ảnh người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.
Tú Xương đã khẳng định vị trí vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi của ông mãi mãi gắn liền với non Côi, sông Vị.
..............
Tải file tài liệu để xem thêm Phân tích bài thơ Thương Vợ của Tú Xương
- Văn mẫu lớp 9: Nghị luận xã hội về lòng dũng cảm - 3 dàn ý chi tiết & 26 bài văn mẫu đặc sắc kèm sơ đồ tư duy
- Bài thơ Lượm - Tác phẩm xuất sắc của nhà thơ Tố Hữu, sáng tác năm 1949
- Nghị luận xã hội về tính tự lập của giới trẻ hiện nay: 5 dàn ý chi tiết và 26 bài văn mẫu lớp 9 xuất sắc nhất
- Những dẫn chứng tiêu biểu về thái độ sống tích cực và tư duy lạc quan trong cuộc sống
- Kể lại câu chuyện về nữ anh hùng Võ Thị Sáu - Dàn ý chi tiết và 10 bài văn mẫu lớp 7