Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận sâu sắc về đoạn trích Trao duyên của Nguyễn Du (2 Dàn ý chi tiết + 10 Bài văn mẫu) - Phân tích Trao duyên
Cảm nhận Trao duyên của Nguyễn Du bao gồm 10 bài mẫu độc đáo và sâu sắc, kèm theo 2 hướng dẫn chi tiết giúp học sinh nắm bắt cách viết. Thông qua các bài văn mẫu này, học sinh sẽ có thêm nguồn tư liệu phong phú để củng cố kiến thức và trau dồi kỹ năng cảm thụ tác phẩm văn học.

TOP 10 bài cảm nhận Trao duyên đạt điểm cao do EduTOPS biên soạn sẽ giúp học sinh tham khảo và nhanh chóng nắm bắt cách viết bài văn xuất sắc. Qua đó, các em sẽ cảm nhận sâu sắc nội dung và thông điệp mà Nguyễn Du muốn truyền tải. Ngoài ra, học sinh có thể tham khảo thêm: tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, phân tích 8 câu cuối Trao duyên.
Cảm nhận Trao duyên ấn tượng nhất
- 1. Dàn ý cảm nhận về đoạn trích Trao duyên (2 Mẫu)
- 2. Sơ đồ tư duy cảm nhận đoạn trích Trao duyên
- 3. Cảm nhận Trao duyên đạt điểm cao
- 4. Cảm nhận bài thơ Trao duyên hay nhất (4 Mẫu)
- 5. Cảm nhận Trao duyên của Nguyễn Du (4 Mẫu)
- 6. Cảm nhận đoạn trích Trao duyên
1. Dàn ý cảm nhận về đoạn trích Trao duyên (2 Mẫu)
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều
- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên
2. Thân bài
a. Lời nhờ cậy trao duyên của Thúy Kiều (12 câu thơ đầu)
* Bốn câu đầu: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều
- Những từ ngữ “cậy”, “chịu” trong lời nói và hành động “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên vô cùng tha thiết.
- “Cậy" vừa mang theo sự khẩn cầu thiết tha vừa tạo ra sức nặng vô hình.
- Kiều dùng lời nói và hành động của người chịu ơn để nói với Thúy Vân.
=> Cách ứng xử của Kiều thể hiện sự sắc sảo, thông minh, khôn khéo và tế nhị.
* Tám câu tiếp: Sự thuyết phục của Thúy Kiều
- 4 câu thơ tiếp: Thúy Kiều kể về mối tình với chàng Kim
+ “Quạt ước” và “chén thề” là những hình ảnh ước lệ tượng trưng gợi nhắc những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ với chàng Kim.
- 4 câu thơ sau: Lí do Kiều quyết định trao duyên
- Biến cố gia đình ập đến, Kiều buộc phải hy sinh tình yêu để làm tròn đạo hiếu
- Thúy Vân còn trẻ trung, tương lai rộng mở phía trước
- Kiều mong Thúy Vân thấu hiểu và chấp nhận lời thỉnh cầu của mình. Thậm chí, Thúy Kiều nhắc đến cả tình thân ruột thịt và cái chết.
=> Thúy Kiều là người sắc sảo, tinh tế, hiếu thảo và trọng tình nghĩa.
b. Thúy Kiều trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân (14 câu thơ tiếp theo)
* Sáu câu đầu: Thúy Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân
- Những kỉ vật như “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” đều là minh chứng cho một mối tình sâu nặng.
- Hai từ “của chung” thể hiện sự lúng túng, ngập ngừng, phản ánh tâm trạng đau đớn của Kiều khi trao lại kỉ vật cho em.
- Sự mâu thuẫn, xung đột: Lí trí mách bảo dứt khoát trao đi, nhưng tình cảm thì không thể buông bỏ.
* Tám câu thơ tiếp: Lời dặn dò của Kiều
- Kiều dường như có dự cảm về cuộc đời mình và cái chết: hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan
=> Thể hiện nỗi đau đớn, tuyệt vọng của Kiều và tấm lòng thủy chung son sắt. Ngay cả khi chết, nàng vẫn hướng về Kim Trọng.
c. Thực tại xót xa và lời nhắn gửi tới chàng Kim (tám câu thơ cuối)
- Dù bị tình cảnh ép buộc, nàng vẫn cảm thấy mình là người có lỗi, đã phụ bạc chàng Kim. Tiếng gọi Kim Trọng cất lên tha thiết và nghẹn ngào. Cả đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột.
=> Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác
d. Đánh giá nghệ thuật
- Cách sử dụng thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, sáng tạo
- Các thành ngữ dân gian được sử dụng tài tình
- Khẳng định tài năng xuất chúng của Nguyễn Du
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc của đoạn trích
2. Sơ đồ tư duy cảm nhận sâu sắc về đoạn trích Trao duyên

3. Cảm nhận Trao duyên đạt điểm cao
Nguyễn Du là thiên tài văn học, nhà văn hóa lớn của dân tộc. Truyện Kiều là kiệt tác văn học của ông. Đoạn trích Trao duyên thuộc phần Gia biến và lưu lạc, khi Thúy Kiều trao gửi tình duyên với Kim Trọng cho Thúy Vân để bán mình chuộc cha và em, khởi đầu bi kịch 15 năm lưu lạc của nàng. Với tài miêu tả tâm lí nhân vật, Nguyễn Du ca ngợi tình yêu sâu sắc của Kiều dành cho Kim Trọng, đồng thời thể hiện nỗi đau đớn tột cùng nàng phải chịu khi trao duyên, qua đó bày tỏ lòng cảm thông sâu sắc của tác giả với số phận “bạc mệnh”.
Đây là đoạn trích mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đầy đau khổ của Thúy Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt do kẻ vu oan, Kiều buộc phải bán mình làm vợ Mã Giám Sinh để lấy tiền cứu cha và em. Sau khi việc nhà tạm yên, nàng mới nghĩ đến tình duyên dang dở với Kim Trọng. Trước hết, Kiều nghĩ cho người mình yêu, dù phận mình đành chịu, nhưng nàng cảm thấy có lỗi với chàng Kim. Trong đêm cuối cùng, nàng quyết định nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Xưa nay, người ta chỉ trao nhau vật chất, chứ ai trao duyên bao giờ. Thế nhưng, Thúy Kiều buộc phải làm điều chưa từng có:
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em“
Lời ướm hỏi nghe thật xót xa. Trong quan niệm xưa, “tình” luôn gắn với “nghĩa”. Giữa Kiều và Kim Trọng đã có lời thề trăm năm, nhưng vì chữ “hiếu”, nàng buộc phải nhờ Thúy Vân trả nghĩa thay mình. Nguyễn Du tinh tế khi để Kiều dùng từ “cậy” thay vì “nhờ”, bởi “cậy” thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối rằng người kia sẽ đồng ý.
“Chịu lời” và “nhận lời” tưởng chừng giống nhau, nhưng “chịu lời” mang sắc thái bắt buộc, khó từ chối. Hai chữ “mặc em” kết thúc màn dạo đầu nhưng hàm chứa sự giao phó trách nhiệm. Hành động “lạy”, “thưa” của Kiều trái ngược với vị thế làm chị, nhưng cho thấy sự trọng đại của việc nàng nhờ cậy. Kiều không chắc Thúy Vân sẽ đồng ý, nên mỗi từ nàng thốt ra đều được cân nhắc kỹ lưỡng. Không thấu hiểu nhân vật và không phải bậc thầy ngôn từ, Nguyễn Du khó lòng viết được những câu thơ đắt giá như vậy.
Kiều thuật lại ngắn gọn nhưng đầy đủ về cảnh ngộ của mình:
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”
Lí lẽ nàng đưa ra để thuyết phục Thúy Vân rất hợp tình hợp lý: “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Tuy nhiên, sau những lời nói ấy, trái tim Kiều đang quặn thắt vì nỗi đau khôn tả. Nàng phải kìm nén nỗi đau để trao duyên cho em một cách trọn vẹn:
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Đến khi phải trao cho Thúy Vân những kỉ vật tình yêu, nỗi đau trong Kiều bùng lên thành mâu thuẫn:
Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
“Tờ mây” là tín vật ghi lời thề nguyền của Kim Kiều. Chiếc vành mây trước đây chàng Kim trao cho Kiều làm của tin, giờ nàng đã trao cả cho Thúy Vân. Nàng buộc phải trao duyên (nhiệm vụ trả nghĩa chàng Kim) cho em, nhưng tình yêu dành cho Kim làm sao trao được? Nó vẫn mãi trong lòng nàng. Những kỉ vật kia là dấu tích của mối tình đầu, là vật lưu giữ tình yêu Kim Kiều. Hai chữ “của chung” diễn tả nỗi tiếc nuối, đau đớn và sự níu kéo (chị vẫn có phần trong đó). Qua đó, ta cảm nhận được tình yêu sâu đậm Kiều dành cho Kim Trọng. Với nàng, hạnh phúc của người mình yêu là điều quan trọng nhất. Đó là lí do nàng trao duyên cho Thúy Vân.
Trong hoàn cảnh ấy, Thúy Vân không thể từ chối. Các điển tích như keo loan, tơ duyên cùng thành ngữ tình máu mủ, lời nước non, thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối… thể hiện sự chân thành, tha thiết nhưng đầy đau đớn của Kiều khi quyết định trao duyên cho em.
Mâu thuẫn nảy sinh khi Kiều trao kỉ vật cho em “giữ” nhưng duyên lại muốn để lại làm “của chung”. Đây là mâu thuẫn giữa cảm xúc và lí trí. Về lí trí, Kiều muốn Kim Trọng được hạnh phúc nên gá nghĩa Thúy Vân cho chàng. Nhưng về tình, tình yêu của nàng dành cho Kim quá sâu đậm, nên không muốn trao gửi. Đây là tâm lí của một tình yêu chân thành và sâu nặng. Việc trao duyên dù đau đớn nhưng chứng tỏ sự hi sinh lớn lao của Kiều.
Kiều buộc phải trao nhiệm vụ trả nghĩa chàng Kim cho em, nhưng duyên phải trao đi không có nghĩa là trao hẳn. Tình yêu của nàng dành cho Kim vẫn mãi trong lòng. Những kỉ vật là dấu tích của mối tình đầu, là vật lưu giữ tình yêu Kim – Kiều. Khi trao chúng cho Thúy Vân, Kiều không khỏi tiếc nuối. Hai chữ “của chung” diễn tả nỗi đau, sự níu kéo và ý nghĩ rằng chị vẫn có phần trong đó.
Tình yêu của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng thật sâu đậm. Với nàng, hạnh phúc của người mình yêu là điều quan trọng nhất. Kiều đau đớn, xót xa khi tự nhận mình là người mệnh bạc:
“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa“
Hai chữ “mệnh bạc” cho thấy Kiều ý thức sâu sắc về số phận bạc bẽo của mình. Với nàng, đó là định mệnh không thể thay đổi. Nguyễn Du đã rất tinh tế khi diễn tả tâm trạng đau đớn của Kiều khi phải dứt tình với Kim Trọng.
Sau khi trao duyên, Kiều dần quên sự hiện diện của Thúy Vân. Nàng như sống lại với những kỉ niệm tình yêu cùng Kim Trọng. Những kỉ vật và đặc biệt là đêm thề nguyền thiêng liêng hiện về trong tâm trí nàng:
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trong tâm hồn Kiều, những kỉ niệm đẹp đẽ của tình yêu vẫn sống mãi. Nguyễn Du tinh tế khi gợi lại hình ảnh quá khứ: Cảnh Kim Trọng thêm hương vào lò và Kiều đàn cho chàng nghe trong đêm thề nguyền. Mỗi kỉ niệm đều khắc sâu trong lòng nàng, chứng tỏ tình yêu nàng dành cho Kim vô cùng sâu sắc.
Càng yêu sâu sắc, Kiều càng cảm thấy cuộc đời trống trải khi không còn tình yêu. Điều này khiến nàng liên tưởng đến cái chết đầy oan nghiệt. Nhiều từ ngữ phản ánh ý nghĩ này: “Mai sau Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Kiều nhớ lại cảnh Đạm Tiên hiện về qua làn gió, cùng những từ như “hồn”, “dạ đài”, “người thác oan”.
Tình yêu không phải vật chất, không thể trao đi rồi mất hẳn. Kiều trao duyên cho em nhưng phải nhận lại nỗi đau khôn tả. Nỗi đau ấy không thể bộc lộ trực tiếp với Thúy Vân. Để đạt tới cao trào của bi kịch, Nguyễn Du đã xây dựng những lời độc thoại nội tâm của Kiều:
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Kiều đã quên hết xung quanh, chỉ còn khóc cho mình, khóc cho mối tình đầu ngắn ngủi. Đó là tiếng khóc cho số phận, tiếng kêu đứt ruột cho tình yêu tan vỡ:
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Các thành ngữ “trâm gãy”, “gương tan”, “bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi” cực tả nỗi đau mất mát và sự tan vỡ không thể hàn gắn trong Kiều. Trong đoạn thơ ngắn, ba lần Nguyễn Du để Kiều gọi Kim Trọng bằng các từ khác nhau: “tình quân”, “Kim lang”, “chàng”. Đáng chú ý nhất là từ “Kim lang”, được láy lại với thán từ “ôi”, “hỡi” đầy thê thiết. Kiều coi Kim Trọng là chồng, nên tiếng gọi vừa thể hiện sự tiếc nuối, vừa hàm chứa nỗi đau đớn khôn nguôi. Nàng gọi chàng để nhận lỗi, oán trách chính mình vì đã phụ bạc.
Tiếng khóc cho mối tình tan vỡ, tiếng khóc cho thân phận khổ đau của Kiều đã chạm đến trái tim bao người. Ở đây, mâu thuẫn giữa tình yêu mãnh liệt và sự chia ly vĩnh viễn tiếp tục được đẩy lên đỉnh điểm, tạo nên bi kịch không lối thoát.
Lời thơ thể hiện tấm lòng vị tha và tình yêu sâu sắc của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Đây là khoảnh khắc đau thương nhất trong cuộc đời nàng, từ một cô gái sống trong cảnh êm đềm “trướng rủ màn che”, giờ đây đã lỡ làng. Lời thơ cất lên như tiếng khóc thương thân xót phận của một người con gái tha thiết với tình yêu. Mọi cung bậc cảm xúc trong Kiều đều được Nguyễn Du miêu tả chân thực, từng từ ngữ, hình ảnh đều được chọn lọc kỹ lưỡng để khắc họa tâm trạng nhân vật.
Theo giáo lí nhà Phật, “duyên” là nguyên nhân tạo nên số phận, sau này được hiểu rộng hơn là sự định sẵn từ kiếp trước cho tình cảm của hai người (thường là tình vợ chồng). Duyên là khái niệm vô hình, nên việc trao duyên vô cùng khó khăn, nhất là với người có đời sống nội tâm sâu sắc như Thúy Kiều. Trao duyên là sự hi sinh lớn lao. Trước đó, Kiều đã hi sinh tình yêu để làm tròn đạo hiếu: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Giờ đây, trao duyên cho Vân là hi sinh tình yêu của mình vì hạnh phúc của người mình yêu. Hành động này khiến hình tượng Kiều trở nên cao cả, đẹp đẽ và đáng khâm phục.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du đặc sắc, tạo nên những mẫu người tiêu biểu cho cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác trong xã hội phong kiến suy tàn. Nghệ thuật tự sự hấp dẫn, cảm động, tạo ra những tình huống và bi kịch đầy kịch tính. Từ miêu tả, tả cảnh ngụ tình đến đối thoại, câu chuyện về Kiều được kể liền mạch qua hơn ba nghìn câu thơ.
Lời trao duyên kết thúc bằng tiếng than đau đớn, tuyệt vọng. Dù tình yêu tan vỡ, khát vọng tình yêu vẫn được khẳng định. Đó là vẻ đẹp cao quý của tâm hồn Kiều, là giá trị nhân văn bền vững của Truyện Kiều. Đoạn thơ mang đậm bi kịch và đau thương, nhưng không u ám, mà vẫn tỏa sáng niềm tin vào tình yêu và con người. Qua Trao duyên, ta thấy được sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với nỗi đau và khát vọng tình yêu của nhân vật. Bút pháp miêu tả nội tâm tinh tế, kết hợp ngôn ngữ bác học, điển tích, thi liệu văn học cổ Trung Hoa với ca dao, tục ngữ, thành ngữ, tạo nên ngôn ngữ văn chương trong sáng, trau chuốt, mượt mà. Cho đến nay, chưa có nhà thơ Việt Nam nào viết thơ lục bát trên ba nghìn câu hay bằng Nguyễn Du.
4. Những cảm nhận sâu sắc nhất về bài thơ Trao duyên (4 bài phân tích đặc sắc)
Cảm nhận Trao duyên - Mẫu 1
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, các tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội và thể hiện giá trị nhân đạo thường không được chú ý nhiều, bởi chúng thường vướng vào những vấn đề nhạy cảm và gây tranh cãi. Đặc biệt, các tác phẩm viết về người phụ nữ, về nỗi đau thân phận và khát khao hạnh phúc lứa đôi thường bị xem là tầm thường. Truyện Kiều là một trong những tác phẩm như vậy, xoay quanh nhân vật Thúy Kiều - một cô gái tài sắc nhưng mang thân phận đầy đau khổ. Mãi đến vài trăm năm sau, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm mới được công nhận, trở thành kiệt tác của văn học Việt Nam. Truyện Kiều khắc họa trọn vẹn nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: nỗi đau thân phận, sự giằng xé giữa chữ hiếu và chữ tình, nỗi xót xa cho tình yêu ngắn ngủi, và nỗi đau của kiếp người bất hạnh. Trích đoạn Trao duyên thể hiện sâu sắc nỗi đau khi Thúy Kiều buộc phải từ bỏ tình yêu để làm tròn chữ hiếu, đồng thời bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh.
Thúy Kiều, con gái lớn trong một gia đình giàu có, sống cuộc đời êm đềm. Nhưng một biến cố bất ngờ ập đến, gia đình bị vu oan, cha và em bị bắt, gia sản bị tịch thu. Trong chốc lát, nàng mất tất cả, kể cả Kim Trọng - người yêu của nàng - cũng không thể giúp đỡ vì đang về quê chịu tang. Để cứu cha và em, Kiều buộc phải bán mình làm lẽ cho Mã Giám Sinh, một kẻ buôn người giả danh, với giá 400 lượng. Tài sắc, thông minh của nàng cuối cùng cũng chỉ đáng giá từng ấy tiền, đổi lấy một kiếp sống tủi nhục mà nàng không hề biết rằng phía trước là 15 năm lưu lạc, đầy đau khổ.
Sau khi giải quyết chuyện gia đình, cứu được cha và em, Thúy Kiều đã làm tròn chữ hiếu. Nhưng nỗi đau khi phải từ bỏ tình yêu với Kim Trọng vẫn dày vò tâm can nàng. Để trả nghĩa cho chàng Kim, Kiều quyết định trao duyên cho Thúy Vân, em gái của mình, nhờ em thay mình chăm sóc và yêu thương Kim Trọng. Đây là cách duy nhất nàng có thể làm để đền đáp phần nào tình cảm chân thành mà Kim Trọng đã dành cho mình.
Trong quan niệm hiện đại, việc Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng có thể bị xem là ích kỷ. Tuy nhiên, trong xã hội phong kiến, việc này là hoàn toàn bình thường. Thúy Kiều đã hy sinh cả cuộc đời và tình yêu để cứu gia đình, nên việc Thúy Vân gánh vác phần ơn nghĩa với Kim Trọng cũng là hợp lý. Dù vậy, Kiều hiểu rằng việc mở lời với Thúy Vân là vô cùng khó khăn, và nàng phải thật cẩn trọng để không làm tổn thương người em gái yêu quý của mình.
“Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều sử dụng những từ ngữ trang trọng như “cậy”, “chịu”, “lạy”, “thưa” để nói với Thúy Vân. Điều này thể hiện sự thông minh và tinh tế của nàng. Kiều muốn mở lời nhờ em gái chuyện trao duyên, nhưng lại sợ em không đồng ý. Vì vậy, nàng dùng cách nói “cậy em” để thể hiện sự khẩn thiết, và “em có chịu lời” để báo trước về việc khó khăn sắp nói. Hành động “lạy” Thúy Vân của Kiều cũng là một cách để dồn em vào thế khó xử, khó mà từ chối lời nhờ cậy của chị.
Sau khi Thúy Vân đồng ý, Kiều kể lại câu chuyện biến cố gia đình và mối tình của mình với Kim Trọng. Nàng bộc bạch sự day dứt, khó xử của mình để Thúy Vân thấu hiểu và dễ dàng chấp nhận việc trao duyên. Kiều nhắc đến những kỷ niệm đẹp đẽ với Kim Trọng, nhưng cũng không quên nhấn mạnh rằng nàng đã phụ lòng chàng vì hoàn cảnh éo le.
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Trong lời kể của Thúy Kiều, tình cảm sâu sắc dành cho Kim Trọng được thể hiện rõ rệt. Nàng nhớ về những lời thề ước, nhưng biến cố gia đình buộc nàng phải từ bỏ tình yêu. Kiều hiểu rằng mình đã phụ lòng Kim Trọng, và việc nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa là cách duy nhất nàng có thể làm lúc này. Nàng mong Thúy Vân hiểu và chấp nhận việc này, dù biết rằng nó có thể gây khó xử cho em.
Kiều tiếp tục dặn dò Thúy Vân, nhắc nhở em về tình máu mủ và hy vọng em sẽ thay mình hoàn thành tâm nguyện. Nàng nói những lời đau đớn, xót xa, như thể đang dặn dò hậu sự. Kiều mong rằng dù mình có ra đi, Thúy Vân và Kim Trọng vẫn sẽ nhớ đến nàng, và những kỷ vật mà nàng trao lại sẽ là minh chứng cho tình cảm thiêng liêng mà nàng dành cho chàng Kim.
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”
Sau khi Thúy Vân đồng ý, Kiều trao lại những kỷ vật đính ước với Kim Trọng cho em gái. Hành động này thể hiện sự trân trọng của Kiều đối với mối tình này. Nàng dặn dò Thúy Vân rằng những kỷ vật này là của chung ba người, và mong rằng dù có trở thành vợ chồng, Thúy Vân và Kim Trọng vẫn sẽ nhớ đến nàng. Những lời dặn dò của Kiều đầy xót xa, như thể nàng đang chuẩn bị cho một cuộc ra đi vĩnh viễn.
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.”
Thúy Kiều tiếp tục dặn dò Thúy Vân như thể đang chuẩn bị cho cái chết của mình. Nàng mong rằng dù có ra đi, Thúy Vân và Kim Trọng vẫn sẽ nhớ đến nàng. Những lời dặn dò của Kiều đầy đau đớn, xót xa, thể hiện sự tuyệt vọng và dự cảm không lành về số phận của mình. Nàng hy vọng rằng dù có chết, linh hồn nàng vẫn sẽ mang theo lời thề với Kim Trọng, và mong rằng Thúy Vân sẽ thay nàng hoàn thành tâm nguyện.
“Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Sau khi mọi việc đã được sắp xếp ổn thỏa, Thúy Vân rời đi, để lại Thúy Kiều một mình trong nỗi đau đớn và day dứt. Nàng nhìn lại những biến cố mình vừa trải qua, nhưng nỗi đau lớn nhất vẫn là mối tình dang dở với Kim Trọng. Hai người vốn dĩ đã hứa hẹn một cuộc sống hạnh phúc, nhưng chỉ vì một biến cố bất công, tất cả đã tan vỡ. Kiều nhớ lại những khoảnh khắc ngọt ngào bên Kim Trọng, lòng quặn thắt vì tiếc nuối và cảm giác tội lỗi khi phải phụ lòng chàng.
Trước sự trớ trêu của số phận, Thúy Kiều không chỉ lạy Thúy Vân để nhờ cậy, mà còn lạy Kim Trọng như một lời tạ tội. Những câu thơ “Trăm nghìn gửi lạy tình quân/Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” thể hiện tình yêu sâu sắc của Kiều dành cho Kim Trọng, đồng thời bộc lộ nỗi tiếc nuối cho một mối tình ngắn ngủi. Nàng tự nhận thức về số phận bạc bẽo của mình, than thở cho cuộc đời bị cuốn trôi như hoa giữa dòng nước. Cuối cùng, tiếng kêu đau đớn “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” mở ra một chương đầy đau khổ trong cuộc đời Kiều.
Trích đoạn Trao duyên là một trong những phần đặc sắc nhất của Truyện Kiều, khắc họa rõ nét nỗi đau của Thúy Kiều trước biến cố gia đình và tình yêu. Qua đó, Nguyễn Du không chỉ thể hiện sự thông cảm với thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, mà còn bày tỏ lòng trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của Thúy Kiều.
Cảm nhận Trao duyên - Mẫu 2
Truyện Kiều là kiệt tác của Nguyễn Du và là niềm tự hào của nền văn học Việt Nam. Đoạn trích Trao duyên là một trong những phần nổi bật, khắc họa tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều khi buộc phải trao duyên cho em gái Thúy Vân.
Theo diễn biến câu chuyện, tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng vừa chớm nở thì gia đình Kiều gặp biến cố. Không thể đứng nhìn cha và em chịu khổ, Kiều quyết định bán mình để cứu gia đình. Sau khi mọi việc đã xong, nàng thức trắng đêm nghĩ về Kim Trọng, vừa day dứt vừa tiếc nuối, và cuối cùng quyết định nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với chàng. Đoạn trích từ câu 723 đến câu 756 đã khắc họa rõ nét tâm trạng này của Kiều.
Thuý Kiều mở lời với em:
"Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Cử chỉ và lời nói của Kiều đều thể hiện sự khẩn thiết và mong mỏi. Hành động “lạy” em gái không chỉ cho thấy sự trân trọng của Kiều mà còn đặt Thúy Vân vào tình thế khó từ chối. Đây là dấu hiệu cho thấy việc Kiều sắp nói là vô cùng hệ trọng.
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Thành ngữ “đứt gánh tương tư” được Nguyễn Du sử dụng để diễn tả tình yêu dang dở của Thúy Kiều và Kim Trọng. Tình cảm của họ vừa chớm nở đã phải chấm dứt vì biến cố. Kiều đau đớn chấp nhận sự thật và trao lại cho Thúy Vân mối “tơ thừa”. Nàng hiểu rằng việc này là thiệt thòi cho em, nhưng vẫn hy vọng Vân sẽ thay mình hoàn thành nghĩa vụ với Kim Trọng.
Dù đã nói ra lời nhờ cậy, Kiều vẫn không thể nguôi ngoai nỗi lòng. Nàng tâm sự với Thúy Vân về những kỷ niệm đẹp đẽ với Kim Trọng:
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”
Điệp từ “khi” được sử dụng để nhấn mạnh tình cảm sâu đậm giữa Kiều và Kim Trọng. Họ đã cùng nhau hẹn ước, uống chén rượu thề nguyền. Nhưng giữa những kỷ niệm ngọt ngào, Kiều lại phải đối mặt với hiện thực phũ phàng và đau đớn.
“Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”
Cơn sóng gió ập đến bất ngờ đẩy Kiều và gia đình vào cảnh nguy nan. Giữa chữ hiếu với gia đình và chữ tình với Kim Trọng, nàng đã chọn chữ hiếu, quyết định bán mình để cứu cha và em. Nhưng để vẹn đạo làm con, nàng buộc phải từ bỏ mối tình dang dở, trở thành kẻ phụ bạc. Nghĩ về tình yêu với Kim Trọng, Kiều không muốn chàng phải chịu đau khổ như mình, nên đành nhờ cậy Thúy Vân. Để thuyết phục em, Kiều nhẹ nhàng tâm sự:
“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Bốn câu thơ này là lời cầu xin tha thiết từ tận đáy lòng Kiều. Nàng khéo léo dùng niềm vui được “thơm lây” nơi chín suối để khiến Thúy Vân không thể từ chối. Hơn nữa, Kiều nhấn mạnh rằng Thúy Vân còn tuổi trẻ, còn thời gian, trong khi nàng đã chôn vùi thanh xuân của mình. Những lý lẽ Kiều đưa ra vừa hợp tình vừa hợp lý, khiến Thúy Vân không thể không nhận lời.
Khi trao lại “chút của tin” - chiếc vành và bức tờ mây, Thúy Kiều nhớ về đêm thề nguyền năm xưa, lòng đau như cắt. Nàng ngậm ngùi trong nỗi đau tột cùng:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.”
Trao kỷ vật cho em mà lòng Kiều đau đớn khôn nguôi. Mâu thuẫn trong nội tâm nàng lên đến đỉnh điểm: tay muốn trao mà lòng không nỡ. Đó là sự giằng xé giữa thân phận và nhân cách, giữa lý trí và tình cảm. Với Kiều, tình yêu chưa cạn mà đành phải dứt là nỗi đau khôn cùng. Sống mà không có hạnh phúc, nàng cảm thấy như mình không còn tồn tại, và cái chết cứ ám ảnh tâm trí nàng.
Sáu câu cuối đoạn trích là lời độc thoại đầy xót xa của Kiều. Nàng như quên hẳn mình đang trò chuyện với Thúy Vân mà chìm đắm trong nỗi đau của chính mình. Lời nói của nàng vang lên trong sự day dứt và mặc cảm phụ bạc:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao, phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
Kiều gửi trăm nghìn lạy đến người tình của mình, một hành động tạ từ đầy chân thành và đau đớn. Tơ duyên tưởng sẽ bền lâu, nào ngờ lại “ngắn ngủi” giữa chừng. Nàng trách phận mình bạc như vôi, như hoa trôi giữa dòng nước, đành chấp nhận tình yêu lỡ làng. Thành ngữ “bạc như vôi” vang lên trong tiếng kêu đau thương của Kiều, khiến lòng người đọc cũng xót xa.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Đến cuối cùng, Kiều vẫn nghĩ cho người khác. Dù đang chịu đựng nỗi đau khôn cùng, nàng vẫn tự trách mình là kẻ phụ bạc và lo lắng cho người yêu. Tiếng gọi “Kim Lang” tha thiết càng làm nổi bật trái tim nhân hậu, trọng nghĩa trọng tình của Thúy Kiều.
Đoạn trích "Trao duyên" tuy ngắn nhưng vô cùng đặc sắc. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp của một tấm lòng thủy chung, son sắt, cùng nỗi đau giằng xé trong tâm hồn người con gái. Đồng thời, ta cũng cảm nhận được giá trị nhân văn sâu sắc trong từng câu thơ mà Nguyễn Du sáng tạo nên.
Cảm nhận Trao duyên - Mẫu 3
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác văn học trung đại Việt Nam, đánh dấu đỉnh cao của nền văn học nước nhà. Tác phẩm gồm 3254 câu thơ lục bát kể về cuộc đời đầy sóng gió của Thúy Kiều, một cô gái tài sắc nhưng bạc mệnh. Nhiều đoạn trích từ tác phẩm được đưa vào chương trình giáo dục, trong đó có đoạn Trao duyên. Đoạn trích này tái hiện bi kịch tình yêu đau đớn của Thúy Kiều, qua đó thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với số phận éo le và tình duyên dang dở của nàng. Mười hai câu đầu đoạn trích đã làm nổi bật điều đó.
Thúy Kiều và Kim Trọng tình cờ gặp nhau và nảy sinh tình cảm đặc biệt. Vượt qua những rào cản của lễ giáo phong kiến, Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để gặp gỡ và thề nguyền cùng Kim Trọng. Tình yêu của họ vốn đẹp đẽ và có thể bền lâu, nhưng số phận trớ trêu đã khiến Kiều buộc phải trao lại mối duyên này cho Thúy Vân. Sau một đêm trắng suy nghĩ, nàng đau đớn mở lời nhờ cậy em:
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Từ “cậy” thể hiện sự tin tưởng và hy vọng của Kiều vào Thúy Vân. Từ “chịu” mang sắc thái khẩn thiết, như một lời van nài, đặt Thúy Vân vào tình thế khó từ chối. Hành động “lạy” và “thưa” của Kiều, dù là chị nhưng lại cúi mình trước em, cho thấy sự chân thành và khéo léo của nàng. Kiều hiểu rằng việc trao duyên sẽ gây thiệt thòi cho em, nhưng nàng không còn cách nào khác để không phụ lòng Kim Trọng.
Tình yêu vốn là thứ thiêng liêng, không ai muốn chia sẻ với người khác. Vì thế, việc trao duyên của Thúy Kiều không hề dễ dàng. Nàng mở lời nhờ cậy em, mong em thấu hiểu và chấp nhận:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”
Trong nỗi đau của tình yêu dang dở, Kiều nhờ Thúy Vân “chắp mối” tơ duyên. Hai chữ “mặc em” thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của nàng vào em gái. Những kỷ niệm đẹp đẽ với Kim Trọng ùa về trong tâm trí Kiều, từ ngày họ gặp nhau đến những đêm thề nguyền. Nhưng hiện thực phũ phàng đã khiến tình yêu của họ tan vỡ, để lại trong lòng Kiều nỗi đau khôn nguôi.
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Để làm tròn chữ hiếu, Kiều buộc phải bán mình chuộc cha và em. Giữa chữ tình và chữ hiếu, nàng chọn chữ hiếu, vì công ơn dưỡng dục của cha mẹ không thể đền đáp bằng cách nào khác. Nàng không thể chọn hạnh phúc riêng mà bỏ mặc gia đình trong cơn nguy biến. Tình yêu vừa chớm nở đã tan vỡ, để lại trong lòng Kiều nỗi đau xót xa và mặc cảm tội lỗi vì phụ bạc Kim Trọng.
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Với sự thông minh và thấu hiểu, Kiều đưa ra ba lý lẽ để thuyết phục Thúy Vân. Thứ nhất, Vân còn trẻ, còn thời gian để cùng Kim Trọng xây dựng hạnh phúc. Thứ hai, tình chị em máu mủ khiến Vân không thể đành lòng nhìn chị đau khổ. Cuối cùng, Kiều nói về cái chết của mình, rằng nếu Vân chấp nhận, nàng sẽ ra đi trong thanh thản. Những lời lẽ của Kiều vừa hợp tình vừa hợp lý, thể hiện sự chân thành và nỗi đau khôn nguôi của nàng.
Bằng 12 câu thơ lục bát cùng ngôn từ tinh tế, Nguyễn Du đã khắc họa thành công bi kịch tình yêu và tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều trong cơn bão tố của số phận.
Cảm nhận Trao duyên - Mẫu 4
Truyện Kiều của Nguyễn Du là bức tranh phản ánh xã hội phong kiến thối nát, đầy bất công, đặc biệt là với người phụ nữ. Nhân vật chính của tác phẩm là Vương Thúy Kiều, một cô gái tài sắc vẹn toàn. Trong một lần đi chơi xuân, nàng tình cờ gặp gỡ và yêu Kim Trọng, một chàng công tử hào hoa. Hai người đã thề nguyền dưới trăng, nhưng sóng gió gia đình ập đến buộc Kiều phải bán mình cứu cha và em. Trước ngày ra đi, nàng đã nhờ Thúy Vân, em gái mình, thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đoạn trích Trao duyên tái hiện diễn biến đêm trao duyên và tâm trạng giằng xé của Thúy Kiều khi phải từ bỏ tình yêu sâu đậm.
Đoạn trích Trao duyên nằm ở phần hai của tác phẩm, từ câu 723 đến câu 734. Sau đêm thề nguyền, Kim Trọng phải về quê chịu tang chú. Đúng lúc đó, gia đình Kiều gặp biến cố, cha và em trai bị bắt. Để cứu họ, Kiều buộc phải bán mình lấy bốn trăm lạng vàng. Nhớ đến tình yêu với Kim Trọng và lời thề nguyền, Kiều không muốn phụ lòng chàng, nên đã nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng.
Tình yêu của Kiều và Kim Trọng vốn là chuyện bí mật, Thúy Vân không hề hay biết. Nhưng giờ đây, khi Kiều tâm sự với em, đó lại là lời nhờ cậy em thay mình trả nghĩa cho người yêu. Chỉ nghĩ đến thôi cũng đủ khiến lòng người đau xót. Kiều mở lời với em trong sự e ngại và lấp lửng:
“Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.
Vốn là chị, nhưng Kiều lại cúi mình trước em gái như một kẻ bề dưới. Từ “cậy” mang sức nặng vô cùng, thể hiện sự khẩn thiết và tin tưởng của Kiều vào Thúy Vân. Hành động “lạy rồi sẽ thưa” càng làm nổi bật sự kính cẩn và nghiêm túc của nàng. Kiều xem Vân như ân nhân, người duy nhất có thể cứu vớt tình yêu của nàng. Sự khéo léo và tinh tế trong cách nói chuyện của Kiều cho thấy nàng là một người thông minh, sắc sảo, dù đang chịu đựng nỗi đau khôn cùng.
Sau khi bày tỏ lòng mình, Kiều kể cho em nghe về mối tình đầu:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Tình yêu của Kiều và Kim Trọng vốn đẹp đẽ, nhưng sóng gió đã khiến nó tan vỡ giữa chừng. Kiều đau đớn khi phải phụ lòng Kim Trọng, nhưng nàng không còn cách nào khác. Nàng nhờ Vân “chắp mối tơ thừa” thay mình. Khi thấy Vân còn ngơ ngác, Kiều tiếp tục kể về mối tình của mình, mong em hiểu và chấp nhận:
“Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Kiều kể về tình yêu của mình, từ lúc gặp gỡ đến lúc thề nguyền, tất cả đều đẹp như mơ. Nhưng sóng gió ập đến quá bất ngờ, buộc nàng phải từ bỏ tình yêu. Kiều không thể vẹn toàn cả chữ hiếu và chữ tình, nên đành phụ lòng Kim Trọng. Nàng nhờ Vân, vì em còn thanh xuân, còn thời gian để cùng Kim Trọng xây dựng hạnh phúc. Kiều hy vọng rằng dù có chết, nàng cũng sẽ “ngậm cười” nơi chín suối nếu Vân chấp nhận lời nhờ cậy.
Tình yêu là những lời thề nguyền, kỷ niệm và kỷ vật. Kỷ vật là thứ để nhớ về người yêu. Nhưng giờ đây, Kiều buộc phải trao đi cả tình yêu và kỷ vật:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”
Trao đi kỷ vật là trao đi tất cả những gì còn lại của tình yêu. Kiều không chỉ trao duyên vì nợ ân tình, mà còn vì sự trân trọng tình yêu của mình. Nàng trao “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn” và “mảnh hương nguyền” trong nỗi đau khổ và giằng xé. Kiều dặn Vân: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Tình duyên giờ là của Vân, nhưng kỷ vật là của chung ba người. Phải chăng, Kiều vẫn muốn giữ lại chút gì đó về mối tình đậm sâu này?
Kiều còn dặn dò Vân đừng quên mình, đừng quên người chị “bạc mệnh” này. Những lời nói của nàng đầy ảm đạm và thê lương, như lời dặn dò của một người sắp rời xa thế gian. Ẩn chứa trong đó là dự cảm không lành về cuộc đời sóng gió phía trước và sự tuyệt vọng với số phận của chính mình.
Mặc dù Kiều rời đi là để theo chồng, nhưng những lời nàng nói lại giống như lời dặn dò cuối cùng dành cho em gái trước khi nàng rời khỏi thế gian này:
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.”
Những lời Kiều nói chứa đầy sự tuyệt vọng, dù nàng chỉ đang bán thân làm lẽ. Có lẽ, với nàng, tuổi xuân đã kết thúc, bao ước mơ và khát vọng đều bị chôn vùi. Nhớ lại số phận của Đạm Tiên mà nàng tình cờ gặp trong tiết thanh minh, nàng càng có dự cảm không lành về tương lai của mình. Trong lòng nàng, mọi hy vọng đều tan biến, chỉ còn lại nỗi đau mất đi tình yêu và sự tăm tối khi nhìn về phía trước. Những điều này khiến nàng nghĩ đến cái chết nhiều hơn là một cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, dù trong đau khổ và dự cảm đen tối, Kiều vẫn mong muốn Vân có một cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Dù ở thế giới bên kia, nàng chỉ xin Vân “rảy xin chén nước” cho người chị bạc mệnh. Qua từng lời nói, có thể thấy Kiều là một người con gái thấu hiểu lý lẽ, thông minh và chu toàn mọi việc. Dù đau khổ, xót xa vì phải trao đi tình yêu, nàng không hề oán trách hay tức giận.
Tất cả những lời dặn dò, Kiều đã gửi gắm hết cho Vân. Sau khi Vân rời đi, chỉ còn lại Kiều trong căn phòng, lúc này, mọi cảm xúc trong lòng nàng mới bùng lên mạnh mẽ. Những nỗi đau đớn, xót xa giờ đây mới được bộc lộ rõ ràng, vỡ òa trong tức tưởi:
“Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Kiều hiểu rõ tình thế mà mình đang phải đối mặt, nàng chấp nhận số phận rằng nàng và Kim Trọng phải xa nhau “trâm gãy bình tan”, nàng phải phụ lòng chàng. Vốn tưởng là một chuyện tình đẹp như mơ giữa đôi trai tài gái sắc, nhưng chỉ vì một cơn sóng gió đã phá hủy mọi hy vọng của nàng. Những khoảnh khắc hạnh phúc chỉ là “tơ duyên ngắn ngủi”, đành gửi lại tình lang của mình. Trái tim Kiều quặn thắt trong đau đớn, những giọt nước mắt xót xa cho mối duyên tình vừa chớm đã đành bạc mệnh lìa đời. Đứng giữa hiếu và tình, Kiều chỉ còn biết “trăm nghìn gửi lạy tình quân”, dù nàng vô cùng tiếc nuối và hổ thẹn vì đã bội ước với chàng. Dù đã nhờ Vân trả duyên cho Kim Trọng, Kiều vẫn cảm thấy có lỗi vô cùng. Chỉ từng ấy thôi cũng đủ thấy tình cảm nàng dành cho Kim Trọng sâu sắc và thiết tha đến nhường nào. Với nàng, tình yêu ấy vô cùng thiêng liêng và quý giá, phải trao đi là sự tiếc nuối và đau đớn nhất trong đời.
Nếu từ đầu đến giờ, ta chưa từng thấy Kiều oán trách số phận trước mặt Vân, thì giờ đây, nàng lên tiếng oán trách số phận mình:
“Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.”
Nàng oán trách nhưng cũng đành bất lực trước sự ngang trái của xã hội và số phận. Một cô gái tài sắc vẹn toàn như nàng giờ đây cũng đành xót xa, buông xuôi trong bế tắc, đau khổ và tủi nhục khi phải làm thiếp lẽ cho người, phải tự tay cắt đứt mối nhân duyên đẹp đẽ. Nỗi đau xót vô bờ ấy cùng với nỗi đau uất ức khi phải chia lìa Kim Trọng đã khiến nàng thốt lên trong vô vọng:
“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Tiếng kêu thảm thương ấy là khởi đầu cho chuỗi mười lăm năm lưu lạc, lênh đênh vô định trong cuộc đời của người con gái mang tên Vương Thuý Kiều.
Đoạn trích Trao duyên là khởi đầu cho cuộc sống lưu lạc của Thuý Kiều sau này. Với tài năng sử dụng ngôn từ, Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh một Thuý Kiều thông minh, sắc sảo hơn người qua từng lời thuyết phục em gái khi trao duyên, đồng thời làm rõ tâm trạng giằng xé phức tạp của nàng khi buộc phải trao đi mối duyên đầu. Qua đó, ta hiểu được tình cảm sâu đậm của Kiều dành cho Kim Trọng cũng như những dự cảm không lành về tương lai của nàng. Đoạn trích cũng làm nổi bật tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du khi ông cảm thông với số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ và trân trọng những phẩm chất đáng quý của họ.
5. Cảm nhận sâu sắc về đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (4 Mẫu)
Cảm nhận Trao duyên - Mẫu 1
Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc Việt Nam, sống trong thời kỳ lịch sử đầy biến động, nơi xã hội bị chi phối bởi đồng tiền. Trong xã hội ấy, ông chứng kiến nhiều cảnh bất công và sự thối nát của thời đại. Ông dành sự cảm thông sâu sắc cho những người phụ nữ bất hạnh. Tác phẩm của ông, đặc biệt là kiệt tác "Truyện Kiều", phản ánh nỗi đau và bi kịch của họ. Đoạn trích "Trao duyên" là một trong những phần đầy xúc động, miêu tả tình cảnh éo le của Kiều khi phải trao duyên cho em gái, đồng thời làm rõ tâm trạng đau khổ và tuyệt vọng của nàng khi tình yêu tan vỡ.
Sau đêm thề nguyền giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về Liễu Dương để chịu tang chú. Tai họa ập đến với gia đình Kiều, buộc nàng phải bán mình để cứu cha và em. Đêm trước ngày theo Mã Giám Sinh, Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Việc trao đi tình yêu của mình cho người khác là điều bất đắc dĩ, nhưng Kiều không còn lựa chọn nào khác vì đã hứa hẹn với Kim Trọng. Chuyện trăm năm vợ chồng trở thành gánh nặng khi Kiều phải nhờ Vân nối duyên. Bốn câu thơ đầu tiên thể hiện hình ảnh Kiều khi nhờ Vân:
"Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em."
Những từ ngữ như "cậy, lạy, thưa" thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của Kiều dành cho Vân. "Cậy" mang sức nặng của niềm tin, còn "chịu lời" ám chỉ sự khó từ chối. Hành động "ngồi lên, lạy, thưa" cho thấy sự kính trọng và lòng biết ơn của Kiều dành cho em gái.
Qua những câu thơ này, ta thấy được dù trong hoàn cảnh đau đớn, Kiều vẫn giữ được sự tế nhị và đoan trang, thể hiện sự khẩn khoản và lòng biết ơn sâu sắc.
Kiều đau đớn khi kể lại mối tình của mình với Kim Trọng. Hình ảnh "quạt ước, chén thề" và điệp từ "khi" nhấn mạnh sự gắn bó sâu sắc giữa hai người. "Đứt gánh tương tư" là sự tan vỡ đột ngột, bất ngờ. Kiều mong Vân chắp nối mối duyên dang dở của mình:
"Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai"
Trong xã hội phong kiến đầy bất công, Kiều buộc phải hy sinh tình yêu để làm tròn chữ hiếu. Cha nàng bị kẻ gian hãm hại, buộc nàng phải bán mình chuộc cha. Chữ hiếu trọn vẹn, nhưng chữ tình lại dang dở.
Kiều tin tưởng Thúy Vân, người em gái trẻ trung và duy nhất có thể thay mình nối duyên với Kim Trọng. Nàng mong Vân xót tình chị em mà nhận lời:
"Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."
Kiều mong Vân xót tình máu mủ mà nhận lời thay mình nối duyên với Kim Trọng. Dù sau này Kiều không còn trên đời, nàng cũng sẽ yên lòng khi Vân chấp nhận mối tình này.
Kiều trao lại những kỷ vật tình yêu giữa nàng và Kim Trọng cho Vân. Dù trao đi, nàng vẫn mong em coi đó là kỷ vật của cả ba người:
"Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai."
Chiếc vành, bức tờ mây là những kỷ vật gợi nhớ tình cảm sâu nặng và lời thề ước thiêng liêng giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Phím đàn, mảnh hương nguyền giờ đã trở thành quá khứ xa xôi. Những kỷ vật ấy không chỉ là minh chứng cho mối tình đẹp đẽ mà còn thể hiện sự mâu thuẫn giữa hoàn cảnh bắt buộc và nội tâm của Kiều. Qua đó, ta thấy được sự giằng xé giữa tình cảm và lý trí, giữa nhân cách cao đẹp và thân phận éo le của nàng.
"Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"
Kiều hình dung ra hai viễn cảnh trái ngược: một bên là cảnh Thúy Vân và Kim Trọng sum họp hạnh phúc, còn bên kia là oan hồn bạc mệnh của chính mình. Dù có chết, tình yêu của nàng với Kim Trọng vẫn còn nguyên vẹn. Trong giây phút này, sự bối rối và nỗi oan ức khiến Kiều như đang nói chuyện với chính mình. Nàng tiên đoán trước cảnh tượng đau thương, oan nghiệt đang chờ đợi mình ở phía trước.
Mất đi tình yêu, Kiều như đã chết, cái chết tâm hồn trống trải khi không còn tình yêu. Tiếng nói của nàng là tiếng lòng thương xót cho thân phận của một con người tha thiết với tình yêu. Từ đối thoại với em, Kiều chuyển sang độc thoại nội tâm, trao đi kỷ vật mà lòng đau như cắt.
Nàng lạy trăm nghìn cái gửi đến tình quân của mình, như một lời xin lỗi chân thành và cũng là lời tạm biệt trước khi chia ly. Tơ duyên tưởng chừng sẽ đi đến tận cùng trời cuối đất, nhưng lại ngắn ngủi chỉ có ngần ấy thôi.
Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn trích đặc sắc, giàu ý nghĩa. Nó không chỉ khắc họa tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều mà còn phản ánh bộ mặt xã hội phong kiến đầy bất công. Tình duyên của người con gái vì thế mà lỡ làng. Dù có đi đâu, Kiều vẫn mãi nhớ về mối tình với Kim Trọng, một tình yêu thiêng liêng và sâu nặng.
Cảm nhận Trao duyên - Mẫu 2
Khi nhắc đến văn học Việt Nam, ngay cả những người bạn quốc tế cũng không thể không biết đến "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du. Với 3245 câu thơ lục bát, mỗi câu đều thấm đẫm tình cảm, làm rung động trái tim người đọc qua mọi thời đại. "Trao duyên" là một trong những đoạn trích tiêu biểu của tác phẩm này, tái hiện một cách xuất sắc diễn biến tâm lý phức tạp và sự giằng xé nội tâm của Thúy Kiều trong đêm nàng nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả nghĩa tình với Kim Trọng.
Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, cả hai đều là những người tài sắc vẹn toàn, nhanh chóng nảy sinh tình cảm. Một đêm trăng thanh, họ đã thề nguyền cùng nhau. Tuy nhiên, Kim Trọng phải về quê chịu tang chú ruột, và biến cố ập đến với gia đình Thúy Kiều. Để cứu cha và em trai, Kiều buộc phải bán mình cho Mã Giám Sinh. Vì chữ hiếu, nàng đành phải từ bỏ mối tình đẹp đẽ với Kim Trọng. Lời thề nguyền trước đó không lâu, Kiều không thể thực hiện được. Trong đêm trước ngày theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều quyết định nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa tình với Kim Trọng.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Trong gia đình Vương ông, Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em. Kiều vốn có vai vế cao hơn so với Thúy Vân. Nhưng khi trao duyên, từ hành động đến cử chỉ, Thúy Kiều đều tự hạ mình để khẩn cầu em. Những từ ngữ “cậy”, “chịu” trong lời nói và hành động “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên vô cùng tha thiết. Không khí cuộc trò chuyện từ đó cũng trở nên nghiêm túc, thiêng liêng hơn. Không phải "nhờ" mà là "cậy". "Cậy" vừa mang theo sự khẩn cầu thiết tha vừa vô hình tạo ra sức nặng. Dù muốn em thay mình nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Song Thúy Kiều vẫn hiểu rằng như thế là bất công với Thúy Vân. Những lời nói và hành động trái với vai vế lễ nghi, chứa đầy sự trang trọng do vậy mới xuất hiện.
Là chị, nhưng Kiều không đứng ở vị trí của người chị mà dùng tư thế của người chịu ơn để nói với Thúy Vân. Lời nhờ cậy ngỏ ra vẫn còn dè dặt, không bắt ép mà "mặc em" quyết định. Tình yêu với Kim Trọng không phải mờ nhạt thoáng qua mà là khắc cốt ghi tâm. Từ bỏ, Kiều phải chịu đựng nỗi đau tan nát cõi lòng. Nhưng ngay cả trong hoàn cảnh ấy, cách ứng xử của Kiều vẫn thể hiện sự sắc sảo, thông minh khôn khéo và tế nhị.
Để thuyết phục Thúy Vân, Kiều đã nói về cảnh ngộ bắt buộc của mình và mối tình dang dở với chàng Kim:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
"Quạt ước” và “chén thề” là những hình ảnh ước lệ tượng trưng gợi nhắc những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ với chàng Kim. Đồng thời cũng như một lưỡi dao sắc, gợi bao đau đớn, xót xa của hiện thực. Tình yêu đôi lứa bị chia cắt, dang dở.
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”
Trong sâu thẳm tâm hồn người con gái tài sắc vẹn toàn là những tâm sự và nỗi đau khắc cốt ghi tâm. Từng câu từng chữ đều thăm thẳm đớn đau xé lòng. Kiều mong Thúy Vân thấu hiểu và đồng ý lời thỉnh cầu của mình. Thậm chí, Thúy Kiều nhắc đến cả tình thân ruột thịt và cái chết. Nguyện ước trao duyên quả thật tha thiết, xót xa khôn cùng. "Thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” đều là những lí lẽ thuyết phục khiến Thúy Vân không thể chối từ. Ngoài ra cũng như mang theo mà dự cảm không lành của nàng về tương lai, số phận bi kịch nhiều sóng gió.
Sau khi thuyết phục em bằng lời lẽ khéo léo, thấu tình đạt lí, Thúy Kiều đã trao lại cho Thúy Vân những kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng, hoàn tất nghi thức trao duyên:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Tất cả những kỉ vật như “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” đều là minh chứng cho một đoạn tình cảm sâu nặng, minh chứng cho một mối tình đẹp đẽ mang tên Kim – Kiều. Dù dang dở, dù thuộc về quá khứ, nó vẫn vô cùng thiêng liêng với Kiều, trao lại cho em, lòng nàng không thể nén được nỗi xót xa, không nỡ. Đây chính là thời điểm lí trí và tình cảm của nàng xảy ra mâu thuẫn.
Hai từ “của chung” thể hiện sự lúng túng, ngập ngừng, cho thấy tâm trạng của Kiều khi trao lại kỉ vật cho em. Lí trí thì mách bảo dứt khoát trao đi nhưng tình cảm thì lại không thể. Nếu như trước đó, Kiều tỏ ra đầy dứt khoát, khôn khéo trong lời nói. Thì đến đây, câu từ đều thấm đượm sự tiếc nuối, xót xa. Từng lời nói như nghẹn lại, trực trào nức nở, mang nặng nỗi đau xé ruột xé gan của người con gái lần đầu rung động trước những ngang trái cuộc đời.
"Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan"
Thúy Kiều dường như đã linh cảm trước về số phận bạc mệnh của mình. Nàng nghĩ đến cái chết và cảnh ngộ oan khuất của bản thân. Dù phải rời xa thế giới này, dù không thể quay lại cuộc sống thường nhật, Kiều vẫn không thể thanh thản mà còn nặng lòng với mối tình dang dở. Nỗi đau đớn, sự bất lực và cảm giác thác oan cứ mãi vẫy vùng trong tâm trí nàng.
Việc chấp nhận trao duyên cũng đồng nghĩa với việc Kiều phải từ bỏ mối tình đẹp đẽ với Kim Trọng, cắt đứt mọi liên hệ với chàng. Khi trao lại những kỉ vật tình yêu cho Thúy Vân, linh hồn nàng dường như cũng tan vỡ theo. Nỗi đau đớn ấy không thể kìm nén mà trào dâng trong tâm trí bế tắc, túng quẫn:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Dù là do hoàn cảnh ép buộc, dù là do sóng gió cuộc đời ập đến bất ngờ, Kiều vẫn cảm thấy mình là người có lỗi, là kẻ phụ bạc chàng Kim. Tiếng gọi Kim Trọng cất lên đầy tha thiết và nghẹn ngào. Cả đoạn thơ như một tiếng than đứt ruột, chứa đựng mọi bi kịch, nỗi đau và tình cảm sâu nặng của Thúy Kiều. Qua đó, ta còn nghe thấy tiếng lòng cảm thông của tác giả và sự trân trọng dành cho người con gái trọng nghĩa tình.
"Trao duyên" là bức tranh tái hiện bi kịch tình yêu tan vỡ đầy xót xa của Thúy Kiều. Qua đó, Nguyễn Du đã làm nổi bật vẻ đẹp của nàng: một người con gái thủy chung, sắc sảo và đầy mặn mà. Đồng thời, đoạn trích cũng thể hiện tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của đại thi hào. Không chỉ đồng cảm, xót thương, Nguyễn Du còn như hóa thân vào nhân vật để tự trải lòng mình. Nhờ vậy, nội tâm Thúy Kiều được khắc họa một cách toàn diện, thể hiện tấm lòng nhân hậu và tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Đoạn trích là sự kết hợp hài hòa giữa thể thơ lục bát truyền thống và các biện pháp tu từ đặc sắc. Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng thành ngữ dân gian, ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học để khắc họa thành công nỗi đau đớn, dằn vặt của Kiều khi trao duyên. Qua đó, hình ảnh người con gái trọng tình trọng nghĩa được làm nổi bật. Đoạn trích không chỉ thể hiện tài năng miêu tả tâm lí nhân vật xuất chúng của Nguyễn Du mà còn cho thấy tấm lòng nhân đạo sâu sắc, sự cảm thông và yêu thương mà ông dành cho nhân vật.
Đoạn trích "Trao duyên" với những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc đã mang đến cho độc giả cái nhìn chân thực hơn về thời đại mà đồng tiền có thể chà đạp lên số phận con người, làm băng hoại đạo đức và đầy rẫy bất công. Dù nhiều năm đã trôi qua, người ta vẫn mãi nhớ đến "Truyện Kiều" như một kiệt tác mang đậm giá trị nhân đạo.
Cảm nhận đoạn trích Trao duyên - Mẫu 3

Nguyễn Du, một thiên tài của nền văn học Việt Nam, đã khắc họa chân thực xã hội phong kiến cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX qua kiệt tác “Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao duyên” là một trong những phần đặc sắc nhất, tái hiện diễn biến tâm lí phức tạp và sự giằng xé nội tâm của Thúy Kiều trong đêm nàng nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả nghĩa tình với Kim Trọng.
Sau khi gia đình gặp biến cố do bị thằng bán tơ hãm hại, Thúy Kiều buộc phải bán mình cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em trai. Chọn chữ hiếu, nàng đành từ bỏ mối tình đẹp đẽ còn dang dở với Kim Trọng. Không thể giữ trọn lời thề nguyền, Kiều đau đớn nhờ Thúy Vân thay mình hoàn thành lời hứa với chàng Kim:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Trong gia đình, Thúy Kiều là chị, có vai vế cao hơn Thúy Vân. Tuy nhiên, khi trao duyên, nàng dùng từ “cậy”, “chịu” cùng hành động “lạy”, “thưa” để thể hiện sự tha thiết, khiến không khí cuộc trò chuyện trở nên trang trọng và thiêng liêng. Từ “cậy” mang sắc thái khẩn thiết, tạo sức nặng khiến Thúy Vân khó lòng từ chối. Dù muốn em thay mình trả nghĩa Kim Trọng, Kiều vẫn hiểu rằng điều này bất công với Vân, nên nàng đã hạ mình, hành động trái với lễ nghi thông thường.
Quyết định trao duyên không chỉ thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của Kiều dành cho em gái mà còn cho thấy nàng coi Thúy Vân như ân nhân cứu mình trong cơn nguy khốn. Lời nói của Kiều đầy dứt khoát: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”, nhưng ẩn sau đó là nỗi đau thấu tâm can. Với Kiều, tình yêu với Kim Trọng không phải chuyện thoáng qua mà là mối tình khắc cốt ghi tâm. Sau khi thuyết phục em, Kiều bày tỏ tâm sự về mối tình dang dở:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Kiều kể lại cuộc gặp gỡ và lời thề nguyền với Kim Trọng. Những hình ảnh ước lệ “quạt ước”, “chén thề” gợi nhớ kỉ niệm đẹp đẽ nhưng cũng khắc sâu nỗi đau khi hiện thực phũ phàng chia cắt đôi lứa. Kim Trọng về quê chịu tang, Kiều bán mình cứu cha, đặt chữ hiếu lên trên chữ tình, khiến tình duyên không thể trọn vẹn.
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”
Kiều giãi bày nỗi lòng với Thúy Vân, mong em thấu hiểu và đồng ý. Nàng nhắc đến tình máu mủ và cả cái chết để tăng thêm sức nặng cho lời nhờ cậy. Cụm từ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” không chỉ thuyết phục Vân mà còn thể hiện dự cảm không lành về tương lai đầy sóng gió của Kiều.
Qua lời trao duyên, ta thấy được sự sắc sảo, khôn khéo và thấu tình đạt lí của Thúy Kiều. Để hoàn tất nghi thức, nàng trao lại cho Thúy Vân những kỉ vật tình yêu với Kim Trọng:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Những kỉ vật như “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” là minh chứng cho mối tình sâu nặng giữa Kim và Kiều. Khi trao lại cho Thúy Vân, Kiều không khỏi xót xa, tiếc nuối. Đến đây, ta thấy rõ sự mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm của nàng. Nếu trước đó Kiều tỏ ra dứt khoát, thì giờ đây, từng lời nói như nghẹn lại, thể hiện nỗi đau đứt ruột trước những ngang trái của cuộc đời.
Việc chấp nhận trao duyên cũng đồng nghĩa với việc Thúy Kiều buộc phải đoạn tuyệt mối quan hệ với Kim Trọng. Sau khi trao lại những kỷ vật cho Thúy Vân, trong nỗi đau đớn tột cùng, nàng như kẻ mất hồn, chỉ còn lại những lời độc thoại đầy xót xa và một tâm trí ngập tràn bế tắc, tuyệt vọng:
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Đoạn trích “Trao duyên” đã làm nổi bật tài năng miêu tả tâm lý nhân vật đỉnh cao của đại thi hào Nguyễn Du, đặc biệt trong việc khắc họa nỗi đau đớn, xót xa của Thúy Kiều khi quyết định trao duyên, chấm dứt mối tình đẹp đẽ và thiêng liêng với Kim Trọng. Qua đó, tác giả không chỉ lên án xã hội phong kiến bất công mà còn bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc với số phận đau khổ, éo le của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội cũ.
Cảm nhận Trao duyên - Mẫu 4
Nguyễn Du - nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam, tác giả của thi phẩm đã đi sâu và luôn tồn tại trong tâm thức người đọc khi nhắc đến ông: “Truyện Kiều”. Truyện Kiều là sáng tác chữ Nôm đặc sắc từ nội dung đến nghệ thuật nhưng ấn tượng nhất đối với tôi đó chính là đoạn trích “Trao duyên” nằm trong tác phẩm nghệ thuật này.
Nhan đề đoạn trích là “Trao duyên” nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của nam nữ như trong ca dao xưa ta vẫn thường gặp. Có đọc mới hiểu, trao duyên ở đây nghĩa là gửi gắm tình cảm, duyên phận của mình cho một người khác, nhờ người khác chắp nối tiếp tình cảm dở dang của mình. Như trong sự trao duyên của Kiều, hoàn cảnh thật éo le, cay đắng!
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Một sự nhún nhường gần như van vỉ, nàng phải lạy em mình như lạy một vị ân nhân, một bậc bề trên. Không phải là “nhờ” mà là “cậy”, từ “ cậy” mang bao nhiêu sự thiêng liêng, lòng tin tưởng kèm với “lạy” và “thưa”, tất cả gộp lại tạo nên sự thay bậc đổi ngôi giữa hai chị em. Và điều đó trở nên thật tài tình, Nguyễn Du như đọc thấu được nỗi lòng nhân vật.
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”
“Gánh tương tư” thật đâu có nhẹ nhàng gì. Nhưng gánh nặng vật chất thì còn có thể san sẻ, nhờ người khác giúp được chứ “gánh tương tư” mà nhờ người khác giúp la điều hiếm thấy xưa nay….Chắc hẳn nàng đã ở trong một tình cảnh khó khăn không còn cách nào khác là phải nhờ đến em “chắp mối tơ thừa”. Từ đầu đến cuối đoạn thơ không hề thấy lời nói của Thúy Vân vì trên hết tình máu mủ ai nỡ từ chối nhau?. Trong tình cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái.
Tình cảm Kiều Kim sâu nặng là thế, mặn mà là thế, “ngày quạt ước”, “đêm chén thề” hỏi sao nàng Kiều không khỏi đớn đau, tê tái. Lòng nàng như ngàn kim đâm, rỉ máu xót xa lay động sâu tâm hồn người đọc. Nhưng khi sóng gió gia đình đến, cha bị bắt đi, nay chữ “hiếu” với chữ “tình” không thể song song… Quyết định chọn chữ “hiếu” bán mình chuộc cha là hy sinh chữ “tình”, coi như linh hồn nàng đã mất đi một nửa…Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội. Hiếu-tình là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội đấy là một xã hội tàn bạo
“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói ngày xuân em hãy còn dài, đau đớn biết chừng nào!. Thuyết phục em thật khéo léo bằng tình chị em, tình máu mủ ruột thịt, Thúy Kiều vô hình chung đã khiến Thúy Vân không thể nào chối từ. Lời lẽ của nàng là vì lo cho Kim Trọng, mong sao chàng Kim có được hạnh phúc trong tan vỡ. Trong đau khổ tuyệt vọng nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác, chẳng lo rằng mình có thể sẽ trải qua bao nhiêu cay đắng đến “thịt nát xương mòn”. Thật là một cô gái có đức hy sinh lớn lao. Qua đó Nguyễn Du đã thể hiện giá trị nhân đạo đáng trân trọng ở Kiều…
“Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.”
Trao kỉ vật của mình và chàng Kim cho em, thật sự lòng nàng vẫn cắn rứt lời thề nguyền đêm trăng của mình và Kim Trọng. Nguyễn Du dùng hai hình ảnh đối lập “nên vợ nên chồng”, “người mệnh bạc” để gợi nỗi thương tâm, băn khoăn, chua xót của Kiều.
Toàn bộ đoạn trích là lời thoại của Kiều nói với Thúy Vân. Tuy nhiên, có lúc, Kiều chuyển đối tượng như đang nói với Kim Trọng chứ không còn nói với Thúy Vân nữa. Ý nghĩa sự chuyển đổi đối tượng cho thấy khả năng Nguyễn Du nắm bắt một cách tinh tế quy luật diễn biến tâm trạng của nhân vật, đồng thời cho thấy khả năng miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du. Ngoài ra ta có thể thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du đối với nàng Kiều trong từng lời nói...
Đoạn trích “Trao duyên” không chỉ chạm đến trái tim tôi mà còn khắc sâu vào tâm khảm của biết bao độc giả khi đọc “Truyện Kiều”.
6. Cảm nhận đoạn trích Trao duyên
Đoạn trích "Trao duyên" trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là một đoạn trích vô cùng xúc động, thể hiện tâm trạng xót xa, của nàng Thúy Kiều khi muốn trao lại tình cảm của mình với Kim Trọng nhường lại cho em gái của mình là Thúy Vân để bán mình chuộc cha và em trai đang bị giam trong ngục tù.
Tâm trạng đau đớn Thúy Kiều khi phải từ bỏ mối lương duyên trời định của mình, từ bỏ những kỉ niệm ngọt ngào vẫn còn in đậm sâu sắc trong tâm can của nàng.
Mối tình Thúy Kiều và Kim Trọng là một mối tình vô cùng xứng đôi vừa lứa thể hiện một mối tình "Trai tài gái sắc" vô cùng viên mãn, nhưng vì tai biến của gia đình nên Thúy Kiều quyết định bán mình, hy sinh thân mình để gia đình cô được bình yên trở lại. Hành động "bán mình chuộc cha" thể hiện sự giằng xé trong tim của Thúy Kiều trước bên hiếu, bên tình vô cùng đau đớn.
Đoạn trích "Trao duyên" được thể hiện qua hình ảnh vô cùng ngược đời, khi Thúy Kiều làm chị nhưng lại quỳ lạy em mình là Thúy Vân, khi cô rơi vào tình thế là người phải nhờ cậy em mình. Những câu thơ thể hiện sự chua xót tận tâm trí của người con gái hiền lương, đoan trang, hiếu thuận Thúy Kiều.
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Những câu nói như "cậy em" rồi thì "ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa" thể hiện sự nhờ vả vô cùng cấp thiết khẩn khoản của nàng Thúy Kiều dành cho em gái của mình là Thúy Vân, nên nàng mới tỏ vẻ vô cùng thật tâm, thể hiện một việc vô cùng quan trọng của nàng muốn nhờ cậy em gái của mình. Bởi tình duyên là việc đôi khi thật sự rất khó nhờ vả.
Trong hai câu thơ tiếp theo Thúy Kiều bắt đầu hồi tưởng lại mối tình duyên đang độ xuân thì tươi đẹp của mình với chàng Kim Trọng, thể hiện sự không nỡ của người con gái khi phải từ bỏ tình duyên của mình.
Thúy Kiều chua xót khi nghĩ tới Kim Trọng khi rồi đây khi mãn tang chú, chàng quay lại tìm nàng nhưng nàng đã đi xa mãi mãi, phiêu dạt tới phương trời nào nàng cũng không biết trước được tương lai của mình. Nhưng nàng yêu Kim Trọng nên khi nghĩ tới việc làm chàng đau khổ thất vọng vì mất người yêu thì trái tim nàng vô cùng đau đớn.
Thúy Kiều biết Thúy Vân không hề yêu Kim Trọng và ngược lại Kim Trọng cũng không có tình ý gì với em gái mình. Nhưng nàng lại muốn gắn kết se duyên cho hai người mà nàng yêu thương. Vì Kim Trọng là chàng trai vô cùng tuấn tú, có học thức biết lễ nghĩa là người tốt. Thúy Vân hiền ngoan thục nữ hai người thành một đôi thì Thúy Kiều có ra đi cũng yên lòng.
Chính vì vậy, Thúy Kiều đã kể lại những tình cảm trong lòng mình dành cho Kim Trọng như những lời tâm sự giữa hai chị em gái với nhau để Thúy Vân hiểu được ngọn ngành.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Xã hội phong kiến thực sự vô cùng tàn nhẫn bất công với những cô gái đoan trang đức hạnh như Thúy Kiều và nhiều người con gái khác. Cuộc sống gia đình nàng đang êm ấm bình yên nhưng lại bị sóng gió ập đến khiến gia đình cô tan nát, gia biến, nhìn cha và em trai bị bắt vào ngục thân làm chị cả Thúy Kiều không thể nào đứng nhìn mà phải nghĩ cách để cứu cha và em trai của mình.
Thể hiện một người con gái vô cùng hiếu thuận, có trái tim nhân hậu luôn hy sinh vì người khác. Việc trao duyên cho em là Thúy Vân thể hiện việc Thúy Kiều là người luôn biết nghĩ cho người khác, lo lắng chu toàn mọi việc. Cô không chỉ nghĩ tới cha mẹ, người thân trong gia đình mà còn thương Kim Trọng người thân của mình.
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Thúy Kiều mong Thúy Vân nghĩ đến tình chị em ruột thịt, máu mủ mà thương cho phận mình, thương cho nỗi khổ đau mà nàng đang phải gánh chịu, từ đó chấp nhận lời đề nghị của chị. Nàng cũng khẳng định rằng, dù thân xác có tan nát nơi phương xa, nàng cũng sẽ ngậm cười nơi chín suối nếu Thúy Vân đồng ý.
Trong đoạn trích "Trao duyên", Thúy Kiều đã trao lại những kỷ vật hẹn ước với Kim Trọng cho Thúy Vân, thể hiện sự chân thành trong việc nhường lại mối tình của mình. Thúy Vân sẽ thay chị chăm sóc, yêu thương Kim Trọng, một hành động đầy nhân văn và tình người của Thúy Kiều dành cho người yêu.
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai
Kỷ vật của Thúy Kiều là chiếc trâm và bức tờ mây, biểu tượng của lời hẹn ước với Kim Trọng. Những kỷ niệm ngọt ngào giờ chỉ còn là quá khứ, và nàng đã trao lại tất cả cho Thúy Vân, thể hiện quyết tâm dứt áo ra đi, dù lòng vẫn đau đớn khôn nguôi.
Dù đã chia tay, nhưng trong tim Thúy Kiều vẫn khắc sâu lời thề với Kim Trọng. Nàng đau đớn thốt lên: "Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi, thiếp đã phụ chàng từ đây".
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây
Thúy Kiều gửi trăm lời xin lỗi đến người tình của mình vì đã phụ tình chàng, không giữ trọn lời thề. Nhưng hoàn cảnh gia đình khiến nàng không còn lựa chọn nào khác, buộc phải hy sinh tình yêu vì chữ hiếu.
Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật so sánh đặc sắc, ví phận Thúy Kiều như vôi - thứ trắng bạc, có sức mài mòn và phai nhạt mọi thứ, thể hiện sự bạc bẽo của số phận.
Đoạn trích "Trao duyên" là một trong những đoạn văn xuất sắc, thể hiện sự giằng xé trong tâm trí Thúy Kiều khi phải lựa chọn giữa chữ hiếu và tình. Nàng đã chọn hiếu, nhưng lòng vẫn đau đớn khi nghĩ đến mối tình dang dở với Kim Trọng.
Tình duyên của Thúy Kiều vốn nặng lời thề, nhưng giờ đây nàng phải trở thành kẻ bội bạc, phụ tình người yêu. Nàng đau xót khi không thể giữ trọn lời hứa với Kim Trọng, dù đó là lựa chọn bất đắc dĩ.
- Hướng dẫn Soạn bài Bắt nạt - Ngữ văn lớp 6 trang 27 sách Kết nối tri thức tập 1 chi tiết và sáng tạo
- Đề cương ôn tập học kì 1 môn Giáo dục địa phương lớp 7 năm học 2024 - 2025 dành cho học sinh tại Hà Nội và Vũng Tàu
- Hướng dẫn Soạn bài: Giải thích quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi và hoạt động - Ngữ văn lớp 7, trang 95, sách Kết nối tri thức tập 2
- Văn mẫu lớp 6: Những rung cảm sâu sắc khi thưởng thức buổi biểu diễn nghệ thuật hoặc cuộc thi thể thao (4 đoạn văn mẫu)
- Soạn bài Thực hành đọc: Chiều sông Thương - Ngữ văn 7 Kết nối tri thức, trang 56, tập 1