Văn mẫu lớp 10: Phân tích và cảm nhận sâu sắc bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ (Dàn ý + 7 Mẫu)
Phân tích và cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu điếu) của Đỗ Phủ với 7 bài mẫu đặc sắc, kèm hướng dẫn viết chi tiết. Đây là nguồn tài liệu quý giá giúp nâng cao kỹ năng cảm thụ văn học, đồng thời khơi gợi sự sáng tạo và tư duy sâu sắc trong quá trình học tập.

Bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ là một kiệt tác văn học, kết hợp tinh tế giữa tâm và cảnh, thi và họa, động và tĩnh, tạo nên một bức tranh đa chiều đầy ẩn ý. Dưới đây là 7 bài văn mẫu cảm nhận sâu sắc về Thu hứng, giúp bạn khám phá những tầng ý nghĩa sâu xa của tác phẩm. Bên cạnh đó, bạn có thể tham khảo thêm phần mở bài và kết bài cho bài thơ Câu cá mùa thu.
Dàn ý phân tích và cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Đỗ Phủ và bài thơ "Thu hứng", khéo léo dẫn dắt từ đề tài mùa thu trong thơ ca nói chung và thơ Đường nói riêng.
II. Thân bài:
1. Bốn câu thơ đầu: Bức tranh mùa thu
a. Hai câu thơ đầu (1 và 2):
- Hình ảnh: "ngọc lộ", "phong thụ lâm" là những hình ảnh giản dị, quen thuộc nhưng đẹp và giàu tính ước lệ của mùa thu Trung Quốc:
- “Ngọc lộ": Miêu tả hạt sương móc trắng xóa, dày đặc làm tiêu điều, hoang vu cả một rừng phong. Bản dịch thơ tuy thanh thoát nhưng chưa truyền tải đầy đủ thần thái của nguyên tác.
- “Phong thụ lâm”: Gợi hình ảnh rừng cây cổ thụ rộng lớn, thường dùng để tả cảnh sắc mùa thu và nỗi sầu li biệt.
- "Núi Vu, kẽm Vu”: Hai địa danh cụ thể ở Trung Quốc, vào mùa thu khí trời âm u, mở ra không gian bao la nhưng hoang vắng, lạnh lẽo. Bản dịch thơ là “ngàn non” đã đánh mất hai địa danh cụ thể và không khí mùa thu.
- “Khí tiêu sâm”: Hơi thu hiu hắt, ảm đạm, tô đậm thêm nỗi u buồn nhuốm đượm trong cảnh thiên nhiên.
- Không gian thiên nhiên vừa có chiều cao, chiều rộng và chiều sâu. Từng hình ảnh hòa vào nhau, vẽ nên bức tranh thu lạnh lẽo, xơ xác, tiêu điều, ảm đạm, tất cả như bị choán ngợp trong không gian bao la, hoang vắng.
- Thấm nhuần trong cảnh thiên nhiên, ta cảm nhận được nỗi buồn, cô đơn, lạnh lẽo của tác giả.
b. Hai câu tiếp theo (3 và 4):
- Điểm nhìn từ lòng sông đến miền quan ải, không gian được quan sát theo ba chiều kích: chiều xa, tầng cao và chiều rộng.
- Tầng xa: Giữa dòng sông thăm thẳm, “sóng vọt lên tận lưng trời”, bức tranh thiên nhiên như có độ sâu hơn, làm hiện rõ sự mênh mông bao trùm.
- Tầng cao: Miền quan ải với hình ảnh mây sa sầm giáp mặt đất.
- Tầng rộng: Mặt đất, bầu trời, dòng sông đều gợi lên không gian rộng lớn.
- Thiên nhiên hiện lên qua ba chiều kích càng trở nên bao la, rợn ngợp, khiến con người đứng trước thiên nhiên ấy cảm thấy nhỏ bé.
- Một loạt hình ảnh tương phản đối lập kết hợp thủ pháp phóng đại: sóng – vọt lên tận trời (thấp – cao), mây – sa sầm xuống mặt đất (cao – thấp), nhấn mạnh sự rộng lớn của không gian.
- Sự vận động trái chiều của các hình ảnh mở ra không gian kì vĩ, tráng lệ, thậm chí khiến ta rùng mình.
- Con người hiện lên trong đó mang nỗi cô đơn giữa không gian bất tận, đồng thời cảm thấy ngột ngạt, bí bách.
- Bốn câu thơ vẽ nên bức tranh mùa thu xơ xác, tiêu điều, mênh mông, rợn ngợp.
- Miêu tả cảnh thiên nhiên, tác giả như đang khắc họa bức tranh xã hội Trung Quốc đương thời loạn lạc, bất an.
- Nỗi buồn lạc lõng giữa thiên nhiên phải chăng cũng là nỗi chênh vênh, lo lắng của tác giả trước thời cuộc.
2. Bốn câu thơ sau: Tình cảm trước mùa thu
a. Câu 5 và 6
- Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ: "Khóm cúc nở hoa – tuôn dòng lệ": Trước hết là hình ảnh tả thực, cánh hoa nở ra là những giọt sương long lanh rơi như giọt lệ, vừa là hình ảnh biểu tượng cho nỗi buồn và dòng lệ trong lòng tác giả.
- "Cô chu": Con thuyền cô độc là hình ảnh biểu tượng khơi gợi sự trôi nổi, lưu lạc của con người, đặc biệt với những người xa quê hương khao khát được trở về.
- “Nhất hệ”: Dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc mối tình nhà của tác giả.
- Một loạt từ ngữ thể hiện trực tiếp nỗi nhớ: “Lưỡng khai” (Nỗi buồn lưu cữu từ quá khứ đến hiện tại), “Cố viên tâm” (Tấm lòng hướng về quê cũ, gợi thân phận kẻ tha hương, li hương luôn khiến lòng nhà thơ thắt lại vì nỗi nhớ quê, nhớ nước).
- Sự đồng nhất giữa các sự vật, hiện tượng:
- Tình – cảnh: Nhìn cúc nở hoa mà lòng buồn tuôn giọt lệ.
- Quá khứ - hiện tại: Hoa cúc nở hai lần năm ngoái – năm nay mà không thay đổi.
- Sự vật – con người: Sợi dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc chặt tâm hồn người.
- Hai câu thơ đặc tả nỗi lòng đau buồn, tha thiết, dồn nén vì nỗi nhớ quê không thể giải tỏa của nhà thơ.
b. Câu 7 và 8
- Hình ảnh mọi người nhộn nhịp may áo rét, giặt quần áo chuẩn bị cho mùa đông tới gợi lên không khí chuẩn bị cho mùa đông, gấp gáp, thúc giục.
- Âm thanh: Tiếng chày đập vải là âm thanh báo hiệu mùa đông sắp đến, đồng thời diễn tả sự thổn thức, ngổn ngang, mong chờ ngày về quê của tác giả.
- Bốn câu thơ vẽ ra những hình ảnh quen thuộc về cuộc sống nơi quê nhà, khắc sâu tâm trạng buồn, cô đơn, lẻ loi, trầm lắng, u sầu vì nỗi mong nhớ trở về quê hương.
3. Nghệ thuật
- Tứ thơ trầm lắng, u uất, mang đậm nét suy tư
- Giọng thơ buồn, thấm đẫm tâm trạng, với câu chữ được chắt lọc tinh tế
- Thi liệu và ngôn ngữ giản dị, mang tính ước lệ cao, đặc trưng của thơ Đường
- Kết hợp nhuần nhuyễn bút pháp đối lập, tả cảnh ngụ tình, lấy điểm tả diện, tạo nên sự hài hòa trong bố cục
III. Kết bài
- Nêu cảm nhận chung về tác phẩm và khẳng định lại giá trị nghệ thuật, tư tưởng của bài thơ
Bài thơ không chỉ khắc họa một bức tranh thu sống động, giàu chất gợi hình mà còn khơi gợi những nỗi niềm sâu kín trong lòng người đọc. Nỗi lo âu trước thời cuộc, nỗi nhớ quê hương da diết cùng cảm giác cô đơn, lạc lõng được thể hiện một cách tài tình qua ngòi bút tinh tế của Đỗ Phủ. Với cảm xúc sâu sắc và nghệ thuật điêu luyện, Đỗ Phủ cùng bài thơ "Thu hứng" sẽ mãi giữ vị trí quan trọng trong nền thi ca Trung Quốc và thế giới.
Cảm nhận bài thơ Thu hứng - Mẫu 1
Đỗ Phủ sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước Trung Quốc chìm trong cảnh loạn lạc triền miên. Dù từng giữ chức quan, nhưng ông sớm rơi vào cảnh phiêu bạt. Đỗ Phủ không chỉ là nhà thơ lớn nhất của thơ Đường mà còn là một trong những thi sĩ vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Trong số đó, bài thơ “Thu Hứng” không chỉ là bức tranh mùa thu hiu hắt mà còn phản ánh tâm trạng u uất của nhà thơ, đồng thời là tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật thơ Đường thời bấy giờ.
Bốn câu thơ đầu mở ra một không gian rộng lớn, bao quát từ tầm mắt của thi nhân:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Bốn câu thơ đầu tả cảnh thu với màu sắc và âm thanh sống động, vừa có chất họa vừa có chất nhạc. Có thể cảm nhận được nhà thơ đang đứng ở một vị trí cao để quan sát toàn cảnh thiên nhiên. Cảnh rừng phong được miêu tả với những chiếc lá đỏ rụng rơi, tượng trưng cho sự chia ly và xa cách. “Ngọc lộ” (hạt sương) là hình ảnh ước lệ của mùa thu, gợi lên sự lạnh lẽo, buồn bã. Những giọt sương làm cho cảnh rừng phong vốn đã tiêu điều lại càng thêm ảm đạm. Hình ảnh rừng phong gợi lên một mùa thu buồn, mang đậm nét tâm trạng của nhà thơ. Hai câu đầu sử dụng phép ẩn dụ và nhân hóa, tạo nên một không gian núi rừng hiu hắt, tàn tạ. Hai câu tiếp theo miêu tả cảnh sông nước và cửa ải, với những hình ảnh sóng vỗ lưng trời và mây đùn mặt đất, tạo nên sự tương phản giữa cảnh thiên nhiên hùng vĩ và con người nhỏ bé. Bốn câu thơ đầu không chỉ tả cảnh mà còn gợi lên nỗi niềm u uất của kẻ tha hương.
Bốn câu thơ sau, tác giả bộc lộ trực tiếp hơn nỗi lòng của mình:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà. )
Hoa cúc, giống như rừng phong, là biểu tượng của mùa thu. Tuy nhiên, điều đặc biệt ở đây là hình ảnh hoa cúc gắn liền với “dòng lệ”. Chữ “lệ” trong câu thơ khiến người đọc khó phân biệt được đó là lệ của hoa hay lệ của nhà thơ. Có lẽ, nên hiểu rằng mỗi khi nhìn hoa cúc nở, nhà thơ lại chạnh lòng nhớ đến quê hương, và những giọt nước mắt cứ thế tuôn rơi không ngừng. Hình ảnh hoa cúc tuôn lệ thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, khắc khoải trong lòng thi nhân.
Hình ảnh con thuyền cô độc buộc chặt mối tình nhà là một biểu tượng nghệ thuật đầy ý nghĩa. Khi chạy loạn, gia đình Đỗ Phủ phải sống trên con thuyền trôi nổi trên sông Trường Giang. Loạn lạc khiến họ không thể trở về quê hương, và tấm lòng nhớ quê đành gửi gắm nơi con thuyền nhỏ bé ấy. Hình ảnh con thuyền còn mang ý nghĩa khái quát, trở thành biểu tượng cho thân phận lênh đênh của con người. Hai câu cuối, tiếng chày giặt vải vang lên như một âm thanh quen thuộc của mùa thu, nhưng không đủ để xua tan nỗi buồn trong lòng thi nhân. Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở con người về việc may áo chuẩn bị cho mùa đông. Âm thanh ấy vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra một nỗi nhớ mênh mang, sâu thẳm trong lòng nhà thơ.
Bài thơ không chỉ là tâm trạng của riêng Đỗ Phủ trong cảnh ngộ cụ thể, mà còn là tâm trạng chung của nhiều người, nhiều thời đại khi họ phải sống trong cảnh biệt li, nhất là trong loạn lạc. Cảnh và tình trong bài thơ kết hợp hài hòa, tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật và chiều sâu tư tưởng.
Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình, bài thơ đã lên án mạnh mẽ những cuộc chiến tranh phi nghĩa, nguyên nhân đẩy con người vào cảnh ngộ thương tâm. “Thu hứng” vừa là nỗi u sầu của người nhớ quê, vừa là niềm khao khát một cuộc sống yên bình. Ai đã từng sống trong chiến tranh, từng chịu cảnh loạn li, ắt hẳn sẽ đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ này.
Bài thơ mang đậm cảm xúc của Đỗ Phủ, được thể hiện qua từng câu chữ. Bên cạnh đó, bài thơ còn cho thấy sự tinh tế của thơ thất ngôn bát cú, mỗi câu thơ đều chứa đựng thần thái và cảm xúc của nhà thơ, tạo nên một tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật và nhân văn.
Cảm nhận Thu hứng - Mẫu 2
Đỗ Phủ, được mệnh danh là bậc thi thánh trong nền văn học Trung Hoa, đã để lại những tác phẩm thấm đẫm nỗi sầu tâm sự và tấm lòng nhân đạo bao la. Thơ ông không chỉ đồng cảm mà còn thấu hiểu sâu sắc những số phận bất hạnh. Cùng viết về đề tài mùa thu, với giọng điệu buồn bã, sầu muộn, bài thơ “Thu hứng” của Đỗ Phủ đã góp thêm một tiếng nói sâu sắc và phong phú cho mùa thu của thiên nhiên.
Bài thơ giống như một khúc ca thu não nề, chất chứa nỗi buồn và tâm trạng cô đơn của tác giả:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Có chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Dịch thơ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh rừng phong hoang vu, lạnh lẽo, thậm chí điêu tàn và xơ xác. Ngàn núi đều nhuốm màu đau thương, lạnh lẽo, xơ xác đến tàn tạ. Những từ láy gợi hình, biểu cảm như “hiu hắt, lác đác” một lần nữa nhấn mạnh vẻ đẹp hoang vu, mênh mông và rợn ngợp nơi đây. Đỗ Phủ đã sử dụng thành công những thi liệu cổ điển, hình ảnh ước lệ, nhắc tới mùa thu là nhớ tới rừng phong, hạt móc sương sa. Cả rừng phong và sương đều là những dấu hiệu báo mùa thu ở Trung Quốc. Trước đây, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã sử dụng thi liệu cổ ấy như một biểu tượng cho mùa thu, cho sự xa cách, cô đơn và hoang vu:
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Sương trắng cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ, ảm đạm, lạnh lẽo. Bức tranh mùa thu tiếp tục được khắc họa với những nét đặc tả đầy ấn tượng:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Không gian mênh mông, hoang vu lại được tô đậm bởi hình ảnh sóng gợn lưng trời. Cái cao rộng và sâu hun hút của lòng sông và bầu trời kết hợp tạo cho người đọc cảm giác ngột ngạt, khó thở đến bức bách. Mây đùn cửa ải xa là một cách diễn đạt tinh tế của nhà thơ khi những đám mây đang xâm lấn và bao trùm vạn vật, càng gia tăng sự trống trải, cô đơn. Nếu ở hai câu trên, cảnh sắc nhuốm màu bi thương tàn tạ thì ở đây, cảnh sắc lại có phần vừa hoành tráng vừa dữ dội. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau, lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn, Vu giáp âm u hùng vĩ. Đến những câu thơ tiếp theo, nỗi lòng của nhà thơ càng được bộc lộ rõ nét:
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình quê
Hình ảnh khóm cúc tuôn dòng lệ hay chính là đôi mắt buồn bã, cô đơn và xa xăm của nhà thơ đang rơi những giọt lệ. Những giọt lệ của nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, xứ sở giống như những cánh hoa cúc nhỏ thầm lặng. Hình ảnh con thuyền cũng là một biểu tượng quen thuộc trong thi ca cổ. Con thuyền ấy chính là phương tiện chuyên chở cho khát vọng được quay trở về quê hương, xứ sở, được đoàn viên hạnh phúc đang chơi vơi trong không gian mênh mông, rợn ngợp của sông nước nơi đây. Nhưng con thuyền ấy cũng chỉ là “cô chu”, con thuyền cô đơn, lẻ loi đơn chiếc một mình trôi dạt, vô định nơi phương trời mà thôi. Câu thơ giống như dòng lệ xót của Đỗ Phủ đang tuôn chảy trên từng từ, từng chữ. Và đến câu thơ cuối, có sự xuất hiện của hình ảnh con người, của âm thanh xôn xao. Nhưng liệu đó có phải là âm thanh tươi vui của sự sống không, hay đó chỉ là một cách để Đỗ Phủ bày tỏ sự buồn bã, thê lương của khung cảnh nơi đây.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
Thành bạch chày vang bóng ác tà.
Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở mọi người rằng mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh hơn cho việc may áo ấm. Lúc này, Loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước chưa yên, chồng con của bao người còn trấn giữ nơi ải xa, nỗi lo còn đó. Trời tối rồi (mộ), không nhìn thấy gì nữa, nhà thơ chỉ nghe thấy tiếng chày đập vải và chạnh lòng nghĩ tới những người lính thú nơi quan ải. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang.
Với tâm hồn thu buồn mênh mang và cô đơn, những vần thơ của Đỗ Phủ đã khắc sâu vào tâm trí người đọc hình ảnh một mùa thu buồn bã, lạnh lẽo và đầy cô quạnh. Sự kết hợp tinh tế giữa các từ láy gợi cảm, hình ảnh ẩn dụ, cùng những chất liệu cổ điển và ước lệ, Đỗ Phủ đã mở ra một không gian nghệ thuật đậm chất thu, góp thêm vào bản tình ca mùa thu của văn học một nét độc đáo và riêng biệt.
Cảm nhận bài thơ Thu hứng - Mẫu 3
Đỗ Phủ, được mệnh danh là Thi Thánh, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Ông để lại một sự nghiệp sáng tác đồ sộ với khoảng 1500 bài thơ, trong đó “Cảm xúc mùa thu” được trích từ chùm thơ “Thu hứng” gồm tám bài. Bài thơ này được đánh giá là tác phẩm hay nhất, bao quát nội dung của bảy bài còn lại, thể hiện nỗi nhớ quê hương tha thiết, khắc khoải của tác giả.
Tác phẩm được sáng tác năm 766, trong thời điểm Trung Quốc vừa chấm dứt loạn An Lộc Sơn. Cuộc loạn này đã gây ra hậu quả khủng khiếp, khiến triều đại nhà Đường rơi vào suy thoái. Cả nội chiến và ngoại xâm đều có nguy cơ bùng nổ, đẩy nhân dân vào cảnh khốn khổ. Bản thân Đỗ Phủ cũng phải trải qua những năm tháng lưu lạc, đói khổ. Khi ấy, ông đến Tứ Xuyên, nhờ sự giúp đỡ của một người bạn thân làm quan, nhưng sau khi người bạn qua đời, ông mất chỗ dựa. Đưa gia đình về quê nhưng vì nghèo đói, ông bị mắc kẹt ở Quỳ Châu hai năm trong cảnh bệnh tật, bế tắc. Trong thời gian này, ông sáng tác nhiều tác phẩm với giọng thơ bi thiết, buồn thảm.
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Câu thơ đầu tiên đã khắc họa ba hình ảnh đặc trưng của mùa thu: rừng phong, hạt móc, và ngàn núi. Ba hình ảnh này có mối quan hệ chặt chẽ, gợi lên cảm giác lạnh lẽo, thê lương. Sương móc, đặc trưng của mùa thu Trung Quốc, mang đến sự giá buốt và lạnh lẽo. Tuy nhiên, bản dịch thơ không truyền tải được tinh thần của nguyên tác: sương móc rơi lác đác, thưa thớt, tạo nên cảnh tượng mờ ảo, quyến rũ. Nguyên tác miêu tả sương móc trắng xóa, dày đặc, bao phủ khắp không gian, gợi sự ảm đạm và hiu hắt. Kết hợp với hình ảnh rừng phong, vốn có màu đỏ rực vào mùa thu, nhưng dưới làn sương trắng xóa, cả rừng thu trở nên xơ xác, tiêu điều. Câu thơ thứ hai khắc họa rõ hơn sự ảm đạm, hiu hắt của khung cảnh thiên nhiên. Vu sơn, Vu giáp là những dãy núi cao, tăm tối, không bao giờ thấy ánh sáng mặt trời. Kết hợp với làn sương dày đặc, không gian càng trở nên ảm đạm, hiu hắt. Ba hình ảnh kết hợp lại tạo nên bức tranh mùa thu lạnh lẽo, tiêu điều, tăm tối nơi đất khách.
Nếu hai câu đầu bao quát cảnh thu theo chiều rộng, thì hai câu tiếp theo lại bao quát cảnh thu theo chiều cao: Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng/ Tái thượng phong vân tiếp địa âm. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đối và phóng đại: sóng vọt lên tận lưng trời, mây sà xuống giáp mặt đất. Hai sự vật thiên nhiên vận động trái chiều, nhấn mạnh sự ngột ngạt, bức bách. Bức tranh thu hiện lên hùng vĩ nhưng âm u, dữ dội, đầy ngột ngạt.
Bốn câu đầu mở ra không gian nhìn từ xa: rừng phong, sông núi, cửa ải,… Bốn câu sau, mạch thơ chuyển động về gần, trước mắt tác giả là hình ảnh:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Với ý tứ sâu xa, bản dịch thơ không truyền tải được hết ý nghĩa của nguyên tác. Câu thơ thứ năm mang nhiều cách hiểu, khi chủ thể của hành động “nước mắt tuôn rơi” bị ẩn đi. Có thể hiểu nước mắt là của khóm cúc, vì những cánh hoa nở ra mang hình giọt lệ. Cũng có thể hiểu chủ thể là thi nhân, mỗi lần nhìn hoa cúc nở, lại chạnh lòng nhớ quê, nhận ra thời gian trôi qua mà mình vẫn bị kẹt lại nơi đất khách. Dù hiểu theo cách nào, câu thơ vẫn chất chứa nỗi buồn đau của tác giả. “Lưỡng khai” (nở hai lần) nhấn mạnh khoảng thời gian hai năm gia đình tác giả lưu lạc ở Quỳ Châu, đồng thời gợi nỗi đau triền miên, dai dẳng. Nỗi đau ấy không chỉ xuất hiện khi hoa cúc nở năm nay, mà đã thường trực từ năm ngoái, cho thấy sự bế tắc và nỗi nhớ quê hương không thể nguôi ngoai.
Cảnh ngộ lẻ loi của tác giả được thể hiện rõ hơn qua hình ảnh “cô chu” – con thuyền cô đơn, lẻ loi. Hình ảnh này không chỉ gợi lên cảnh ngộ cô đơn, trôi nổi nơi đất khách, mà còn là sợi dây buộc chặt nỗi nhớ quê hương. Câu thơ vừa là hình ảnh thực – con thuyền chở gia đình nhà thơ bị mắc kẹt ở Quỳ Châu – vừa là ẩn dụ cho nỗi nhớ quê da diết. Chữ “buộc” trở thành nhãn tự của câu thơ, vừa là sợi dây buộc con thuyền, vừa là sợi dây thắt lòng người.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Trong nỗi nhớ quê hương da diết, tiếng dao thước may áo rét và tiếng chày đập áo dồn dập càng làm nổi bật nỗi niềm của kẻ xa quê. Hình ảnh này không chỉ thể hiện nỗi nhớ quê, mà còn cho thấy nỗi lo lắng về tình hình đất nước chưa được yên bình.
Với ngôn từ hàm súc, cô đọng và bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Đỗ Phủ đã tái hiện bức tranh mùa thu xơ xác, tiêu điều, lạnh lẽo. Đằng sau bức tranh ấy là tâm trạng u uất của tác giả: nỗi lo cho đất nước, nỗi nhớ quê hương và nỗi xót xa cho thân phận mình.
Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu - Mẫu 4
Đại thi hào Nguyễn Du từng đúc kết quy luật: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Quả thật, dù cảnh vật có tráng lệ đến đâu, cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm trạng con người. Đỗ Phủ, với nỗi lòng đau đáu về đất nước, đã khiến mùa thu trở nên sầu thảm, như đổ lệ, và từ đó, ông viết nên bài thơ “Thu hứng” – một tuyệt tác trong sự nghiệp thơ ca của mình.
Khi nhắc đến mười nhà thơ Đường xuất sắc nhất, không thể bỏ qua Đỗ Phủ, người được mệnh danh là “thánh thơ”. Cuộc đời ông gắn liền với những đau khổ, bất hạnh: thời thơ ấu đói nghèo, bệnh tật; khi trưởng thành lại chìm trong cảnh chiến tranh. Dù vậy, ông chưa bao giờ ngừng sáng tác, gửi gắm trọn vẹn tâm hồn vào từng câu chữ. Khi viết “Thu hứng”, Đỗ Phủ đã trải qua mười một năm lưu lạc nơi đất khách sau loạn An Lộc Sơn.
Ông sống những năm tháng lưu lạc ấy ở vùng Quý Châu, Tứ Xuyên, nơi núi non hiểm trở, trùng điệp. Trước khung cảnh ấy, hồn thơ Đỗ Phủ lại hướng về quê cũ, trĩu nặng suy tư. Và cũng từ đó, ông mượn mùa thu để gửi gắm nỗi lòng mình. Giống như nhiều bài thơ Đường khác, “Thu hứng” được chia làm bốn phần: đề, thực, luận, kết.
Bốn câu đầu, tác giả vẽ nên bức tranh mùa thu nơi vùng Quý Châu, với núi non, mây trời. Bốn câu sau là nỗi niềm của thi nhân khi đứng trước mùa thu, nhưng thực chất là đứng trước lòng mình mà nghĩ về thân phận lưu lạc. Mỗi phần đều mang những nét đặc sắc về nghệ thuật và nội dung, khiến chúng ta phải khâm phục đến tận ngày nay. Đứng trước cảnh Quý Châu núi rừng bạt ngàn, lòng thi nhân cũng treo vào rừng vào núi:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
(Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn non hiu hắt khí thu loà.)
“Thi trung hữu hoạ” – trong thơ có họa, quả không sai khi nói về thơ Đỗ Phủ. Ta như thấy được nét bút tinh tế của thi nhân khi chấm phá từng chi tiết của cảnh vật. Mùa thu hiện lên qua rừng phong, sương móc và núi non. Rừng phong đã trở thành hình ảnh cổ điển của mùa thu, khi lá phong chuyển màu đỏ cũng là lúc thu về. Nhưng cái tinh tế của Đỗ Phủ nằm ở chỗ ông nhìn thấy sương móc trên những cành phong đang rụng lá.
Lá phong mang màu đỏ sẫm của sự chia ly, rụng dần theo ngày tháng, gợi lên nỗi buồn đau, ly biệt. Nỗi buồn ấy dường như trở thành vĩnh cửu trong cảm xúc mùa thu. Và giọt sương thêm vào càng làm cho không khí trở nên u ám, tiêu điều hơn. Cảnh thu được nhìn từ trên cao, nhưng càng lên cao lại càng thấy xa lạ, cô đơn.
Ở câu thơ thứ hai, điểm nhìn vẫn chênh vênh trên đỉnh núi. Ba chữ “khí tiêu sâm” vang lên, khiến mọi thứ trở nên tối tăm, mù mịt. Bản dịch dùng hai chữ “hiu hắt”, có lẽ chưa thể hiện hết được sự u ám đến lạnh người ấy. Không gian đó bao trùm lên khắp Vu sơn, Vu giáp, khiến núi Vu, hẻm Vu càng thêm hiểm trở.
Cả không gian núi non của vùng đất Ba Thục xưa hiện ra trước mắt, tầng tầng lớp lớp. Mây mù che phủ cả núi, cả rừng. Liệu đó là mây mù tự nhiên, hay là tâm trạng u sầu của thi nhân đã nhuốm lên cảnh vật? Nhà thơ đã dùng ngòi bút thấm đẫm tâm trạng để vẽ nên bức tranh thiên nhiên. Hai câu thực tiếp theo vẫn mang màu sắc bi thương của tác giả. Núi non khép lại, mở ra sông nước bạt ngàn:
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Thi nhân giờ đây không cần ngước mắt lên để thu trọn cảnh vật nữa. Hơi thu lan tỏa vào tình sông nước, vừa bi thương vừa hùng tráng, khiến lòng người nao nao. Các tính từ “rợn, thẳm” gợi lên cái hồn của cảnh vật và cả tâm trạng con người. Vì thác ghềnh, sông hẹp, nên sóng từ giữa sông vọt lên, tạo nên một cảnh tượng dị thường. Lòng sông hay lòng người mà sâu thẳm đến vậy? Liệu đây có phải là cảm giác rợn ngợp của tác giả khi đứng trước sóng nước bao la? Con người dường như quá nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ.
Đến câu thơ thứ ba, mây mù lại lan tỏa khắp chốn: “Tái thượng phong vân tiếp địa âm”. Lúc trước là sóng chạm trời, giờ đây là mây tiếp đất. Cảnh vật chỉ có thể gọi bằng hai chữ “hùng tráng”. Mây đùn dày đặc, như tiếp đất, vừa tả thực vừa lột tả tâm trạng. Vùng mây ấy che lấp cả cửa ải, che khuất lối về quê cũ của thi nhân. Lòng người giờ đây cũng chìm trong mây mù, mập mờ khi nhìn về cố hương.
Bốn câu thơ đầu đã lột tả được hồn của cảnh vật. Khí thu nơi đây mang vẻ hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên núi rừng, nhưng lại đơn độc, lẻ loi và phủ màu u ám. Cả bức tranh vùng Quý Châu hiện lên trong tâm trí người đọc một cách sống động. Tác giả chỉ điểm xuyết chứ không miêu tả chi tiết, khiến sức khơi gợi càng thêm mạnh mẽ. Đứng trước cảnh trời thu như vậy, liệu lòng tác giả có thể an yên?
Trong thơ cổ, thiên nhiên và con người vốn là một thể thống nhất. Cảnh núi non Quý Châu buồn bã như vậy, tâm trạng của người ngắm cảnh liệu có thể vui? Theo quy luật tất yếu, bốn câu thơ sau đã hé lộ bức tranh tâm trạng thầm kín của thi nhân:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)
Đây có lẽ là hai câu thơ xuất sắc nhất trong bài thơ “Thu hứng”. Câu thơ vừa tả cảnh, vừa gợi tình. Không còn là những hình ảnh hùng vĩ của thiên nhiên, tác giả quay về với khóm cúc trước mặt. Dùng hoa cúc để gợi mùa thu không phải là điều mới mẻ, nhưng cách Đỗ Phủ sử dụng hình ảnh này lại mang đến sự độc đáo.
Nhưng trước màu hoa cúc ấy mà tuôn lệ, có lẽ chỉ có nỗi lòng Đỗ Phủ. Hoa cúc nở, nhưng lòng người lại héo úa, tàn tạ. Liệu có phải mùa cúc nở cũng là mùa thu nơi cố hương của tác giả, khiến ông nhớ về những mùa thu xưa? Tức cảnh sinh tình, hoa cúc cũng vì thế mà rơi lệ theo.
Cái tài của Đỗ Phủ là dùng những hình ảnh quen thuộc để diễn tả tâm trạng. Trên là hoa cúc, câu thơ dưới lại là hình ảnh “cô chu” – con thuyền cô đơn. Chỉ cần nhắc đến con thuyền, người ta đã cảm nhận được sự lưu lạc, thương nhớ. Chữ “cô” lại càng làm nổi bật sự đơn độc, lạc lõng, khiến lòng người đau nhói.
Con thuyền chở theo nỗi lòng thương nhớ, chở khát vọng quay về, nhưng dường như trước cảnh núi non mây mù, nó không tìm được phương hướng. Lòng tác giả cũng ngổn ngang, bề bộn như con thuyền đơn độc ấy. Bức tranh mùa thu lúc này mới chỉ có tĩnh mà chưa có động, mới có họa mà chưa có thanh. Hai câu kết, âm thanh vang lên như muốn đem lại sự sống:
Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)
Bóng chiều giờ đã buông xuống, bao trùm cảnh vật và tâm hồn thi nhân. Chỉ còn lại tiếng dao thước may áo rét, tiếng chày đập vải. Đó là âm thanh của sự sống, nhưng dường như quá nhỏ nhoi, không đủ để xua tan cái âm u của cảnh và làm ấm lại lòng người.
Ngược lại, âm thanh ấy khiến thi nhân nhớ đến những người lính nơi biên ải, khi loạn nước chưa dẹp xong, họ chưa thể trở về bên gia đình. Tiếng đập vải càng thêm chua chát. Cái lạnh lẽo của mùa thu đã bao trùm lên tất cả, kể cả tiếng đập vải giữa trời chiều. Âm thanh ấy khép lại bài thơ, để lại trong lòng người đọc những âm vang còn mãi băn khoăn.
Như vậy, cả bài thơ là hồn của cảnh và người vùng Quý Châu. Thiên nhiên dẫu có đẹp, có hùng vĩ đến đâu cũng không làm lòng người khởi sắc. Vẫn là nỗi hoài niệm về chốn cũ chất chứa, như một con thuyền đơn độc lẻ loi hay tiếng đập vải giữa đất trời. Ta thấy được tài năng nghệ thuật của Đỗ Phủ trong cách tạo vế đối, dùng từ, đặt câu.
Đỗ Phủ đã dùng trái tim mình để viết nên thơ, biến cảm hứng mùa thu thành khúc thu của nhân loại. Thời gian rồi sẽ trôi, nhưng “Thu hứng” vẫn sẽ mãi nằm ngoài sự băng hoại của nó!
Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu - Mẫu 5
Mùa thu là đề tài được nhiều thi sĩ lựa chọn để sáng tác, trong đó có Đỗ Phủ với bài thơ “Thu hứng”. Đỗ Phủ (712-770), tên thật là Tử Mĩ, hiệu Thiếu Lăng, quê ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Xuất thân từ gia đình có truyền thống Nho học và làm thơ lâu đời, ông từng thi cử nhiều lần nhưng đều không đỗ. Cuộc đời ông chìm trong nghèo khổ và bệnh tật, nhưng ngọn lửa văn chương trong ông luôn cháy mãi.
Dù sống trong cảnh khó khăn, Đỗ Phủ vẫn sáng tác không ngừng, để lại hàng ngàn bài thơ giá trị trong kho tàng văn học Trung Quốc. Thơ ông không chỉ phản ánh lịch sử và tình yêu nước, mà còn chan chứa tình thương người. Ông được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới, khẳng định tầm ảnh hưởng lớn lao của ông đối với nền văn học nhân loại.
Ngoài những bài thơ mang tính “thi sử”, Đỗ Phủ còn có những tác phẩm trữ tình thể hiện cảm xúc chân thành trước thiên nhiên. “Thu hứng” là một trong những bài thơ tiêu biểu, thể hiện rõ nét cảm xúc của ông về mùa thu. Bài thơ này là tác phẩm đầu tiên trong chùm thơ tám bài, được viết năm 766 khi ông sống lưu lạc ở Quý Châu, Tứ Xuyên – vùng đất có cảnh sắc hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương hàng ngàn dặm.
“Thu hứng” được sáng tác trong bối cảnh đất nước vừa trải qua loạn An Lộc Sơn, dù cuộc nổi loạn đã được dẹp yên, nhưng hậu quả chiến tranh khiến đất nước kiệt quệ. Đỗ Phủ vẫn phải sống lưu lạc nơi xứ người, chưa thể trở về quê hương. Chính hoàn cảnh này đã khơi gợi cảm xúc bi thương, thôi thúc ông viết nên bài thơ “Thu hứng” với tâm trạng u uất, sầu não.
“Thu hứng” vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hiu hắt, vừa là tiếng lòng của nhà thơ trước hiện trạng đất nước hỗn loạn, nỗi nhớ quê hương da diết và thân phận bất hạnh của chính mình nơi đất khách. Bài thơ chia làm hai phần rõ rệt: bốn câu đầu tả cảnh thiên nhiên mùa thu ở vùng thượng nguồn Trường Giang, bốn câu sau thể hiện cảm xúc của thi nhân trước cảnh thu nơi xứ người.
Hai câu thơ đầu tiên đã khắc họa cái thần của một chiều thu ở Quý Châu chỉ bằng vài nét chấm phá:
“Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu Sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.”
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)
Câu thơ đầu tiên cho thấy tác giả đang đứng ở vị trí cao, bao quát toàn cảnh. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ thể hiện qua hình ảnh rừng phong: “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm”. Trong thơ Trung Quốc, rừng phong gắn liền với mùa thu, khi lá chuyển màu đỏ úa, gợi lên sự chia ly. Sương móc dày đặc làm cảnh vật trở nên mờ ảo, xơ xác, tiêu điều.
Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rõ ràng qua cái nhìn đầy tâm trạng của Đỗ Phủ. Câu thơ thứ hai: “Vu Sơn, Vu giáp khí tiêu sâm” gợi nhớ đến đất Ba Thục xưa. Toàn cảnh bao trùm sự hiu hắt, ảm đạm. Bản dịch chưa thể hiện hết ý nghĩa của cụm từ “khí tiêu sâm” (tối tăm, ảm đạm), làm giảm đi phần nào sắc thái u uất của nguyên tác.
Vu Sơn là vùng núi hiểm trở, hùng vĩ, thường xuất hiện trong truyện cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Vách núi dựng đứng khiến ánh mặt trời khó lọt xuống dòng sông. Vào mùa thu, ánh nắng yếu ớt càng làm nơi đây thêm ảm đạm, lạnh lẽo. Qua ngòi bút miêu tả của Đỗ Phủ, cảnh vật càng trở nên tối tăm, u uất.
“Giang gian ba lăng khiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm”
(Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa)
Tiếp theo, tác giả miêu tả cảnh thu dưới thấp: sóng dữ dội vọt lên tận lưng trời. Bản dịch cho thấy sự hùng vĩ, choáng ngợp của thiên nhiên, đồng thời thể hiện cảm giác nhỏ bé của con người trước cảnh sắc bao la. Hình ảnh “Mặt đất mây đùn cửa ải xa” miêu tả mây trắng sà xuống thấp, tưởng như đùn từ mặt đất lên, che lấp cảnh vật phía xa.
Nếu cảnh sắc ở hai câu thơ trên mang màu sắc ảm đạm, tăm tối, thì hai câu sau lại hiện lên với vẻ hoành tráng, dữ dội. Hai cặp câu bổ sung cho nhau, tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa ẩm thấp vừa hùng vĩ nơi Vu Sơn. Ở bốn câu tiếp theo, Đỗ Phủ bày tỏ nỗi lòng mình trước cảnh sắc mùa thu nơi đất khách, không phải quê hương của ông. Câu năm và sáu sử dụng nghệ thuật đối chuẩn xác, vừa tả cảnh mùa thu vừa gợi tình thu. Nếu rừng phong gắn liền với mùa thu, thì hoa cúc cũng là biểu tượng không thể thiếu:
“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô thu nhất hệ cố viên tâm”.
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)
Câu thơ thể hiện rằng mỗi khi nhìn thấy hoa cúc, nhà thơ lại rơi lệ. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được nỗi sầu bi, sự cô đơn của Đỗ Phủ sau nhiều năm phiêu bạt, xa cách quê hương. Hoa cúc là yếu tố gợi nhớ, còn hình ảnh con thuyền lại càng khắc sâu nỗi nhớ nhà. Con thuyền trở thành phương tiện duy nhất để tác giả trở về quê hương trong tâm tưởng.
Hai câu kết đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này làm bức tranh sinh hoạt trở nên sống động, nhưng không đủ để xua đi nỗi buồn trong lòng nhà thơ:
“Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.”
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)
Hình ảnh mùa thu qua, đông sắp đến nhắc nhở mọi người chuẩn bị đồ ấm. Lúc này, loạn An Lộc Sơn đã dẹp yên, nhưng đất nước vẫn chưa yên ổn, nhà thơ vẫn chưa thể trở về quê hương.
Bài thơ “Thu hứng” giúp chúng ta thấy được Đỗ Phủ là một thi sĩ xuất sắc, không chỉ nổi tiếng ở Trung Quốc mà còn vang danh khắp thế giới. Bài thơ không chỉ khắc họa cảnh sắc mùa thu, mà còn thể hiện nỗi lòng đau đáu nhớ quê hương của tác giả.
Cảm nhận bài Cảm xúc mùa thu - Mẫu 6
Tác giả Đỗ Phủ (712 - 770) là nhà thơ lớn không chỉ của đời Đường mà còn của lịch sử thơ ca Trung Quốc. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 7 tuổi, khi nhà Đường còn phồn thịnh, nhưng tài năng của ông chỉ thực sự nở rộ sau sự biến An Lộc Sơn – Sử Tư Minh (755 - 763), khi đất nước chìm trong cảnh loạn li. Đỗ Phủ và gia đình cũng phải chạy loạn khắp nơi. Thơ của ông phản ánh hiện thực và bày tỏ thái độ, tâm trạng trước những khốn khổ của nhân dân, chiến tranh, và nạn đói. Đặc biệt, ông thành công trong việc thể hiện tâm trạng khi sống trong cảnh tha phương cầu thực, nổi bật nhất là chùm thơ "Thu hứng" gồm tám bài thất ngôn bát cú Đường luật.
Tác phẩm "Cảm xúc mùa thu" (Thu hứng 1) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách trữ tình của Đỗ Phủ. Bài thơ kết hợp tả cảnh và tả tình, với cấu trúc quen thuộc: bốn câu đầu tả cảnh, bốn câu sau tả tình. Cảnh mùa thu mang nét đặc trưng của thiên nhiên Trung Quốc, được nhìn qua tâm trạng của một người tha hương, nhớ quê hương nhưng không thể trở về. Bức tranh phong cảnh có đủ màu sắc, hình khối, đường nét và âm thanh, tạo nên sức gợi mạnh mẽ. Đây là bài thơ điển hình cho thể thơ luật Đường và phong cách trữ tình hiện thực của Đỗ Phủ.
Đỗ Phủ và Lí Bạch là hai đỉnh cao của thơ Đường, đại diện cho hai khuynh hướng: lãng mạn và hiện thực. Cuộc đời Đỗ Phủ gắn liền với những biến động xã hội thời loạn An Lộc Sơn - Sử Tư Minh. Chứng kiến cảnh đất nước loạn li và là nạn nhân của xã hội thời loạn, thơ ông chứa đựng chất liệu hiện thực phong phú. Thơ Đỗ Phủ được coi là "thi sử", với nghệ thuật điêu luyện và khả năng truyền tải tư tưởng thời đại. Xuất thân từ gia đình Nho học, ông mang trong mình lí tưởng quân tử, muốn cứu nước giúp đời, nhưng triều đình phong kiến thối nát đã làm lí tưởng của ông đổ vỡ. Ông chết đói trên con thuyền lẻ loi nơi đất khách. Thơ Đỗ Phủ là tiếng lòng đau đời của một người có trách nhiệm với dân tộc.
Chùm thơ "Thu hứng" thể hiện rõ nỗi đau đời của Đỗ Phủ. Bài thơ được sáng tác năm 766, bốn năm trước khi ông qua đời, trong thời kì chín muồi tài năng. Một bài thất ngôn bát cú Đường thi thường có cấu trúc bốn phần: đề, thực, luận, kết. Tuy nhiên, "Thu hứng" có thể chia làm hai phần: tả cảnh và tả tình. Bốn câu đầu tả cảnh, bốn câu sau bày tỏ tâm trạng nhân vật trữ tình.
Trong thơ ca, tình và cảnh không thể tách rời. Cảnh chứa tình, và tình khó bày tỏ nếu thiếu cảnh. Trong "Thu hứng", cảnh và tình hòa quyện, tạo nên sức biểu đạt mạnh mẽ. Thơ Đường có quy định chặt chẽ về niêm luật, thi liệu, và đề tài, khiến hình ảnh và ngôn từ thường không phong phú. Tuy nhiên, chính sự ngặt nghèo này lại kích thích khả năng sử dụng ngôn ngữ của các nhà thơ. Cảnh mùa thu là đề tài quen thuộc, nhưng sự sáng tạo của Đỗ Phủ nằm ở nghệ thuật miêu tả và hình tượng nhân vật trữ tình.
Bốn câu đầu tả cảnh mùa thu với những hình ảnh quen thuộc: rừng phong, khí trời u ám, mặt nước mờ sương:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu loà.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Bốn câu thơ tả cảnh thu vừa có chất nhạc vừa có chất họa, với đủ sắc màu, đường nét và âm thanh. Tuy nhiên, sắc màu không tươi sáng, âm thanh không vui tươi. Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nhưng không gian u ám, lạnh lẽo. Nhạc tính được thể hiện qua nghệ thuật bố trí thanh bằng trắc và cách gieo vần. Bốn câu thơ này có ba câu gieo vần bằng, tạo cảm giác mênh mang cho tâm trạng trữ tình. Đây là bức tranh mùa thu đặc trưng của thiên nhiên Trung Quốc, được nhìn qua con mắt u sầu của người tha hương.
Cảnh thu Trung Quốc vốn buồn lạnh, nhưng cái u ám của bức tranh này còn được tạo nên bởi tâm trạng người dựng cảnh. Không gian nghệ thuật bài thơ có đủ chiều cao, chiều rộng, nhưng nặng nề, u uất. Cảnh và tình hòa quyện, tạo nên bức tranh thiên nhiên đầy tâm sự. Ánh mắt hướng về quê hương bị cản trở bởi cửa ải mây mù. Tâm trạng đau buồn của người tha hương được bộc lộ rõ hơn ở phần tả tình:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)
Bốn câu thơ nói đến cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật trữ tình. Hai phần của bài thơ tưởng như độc lập, nhưng thực chất là sự phát triển tất yếu của tâm trạng. Cảnh buổi sáng mùa thu u ám gợi liên tưởng đến thực tại và những ngày chạy loạn. Nỗi nhớ quê hương trỗi dậy khi thu sắp tàn và đông sắp tới. Tư tưởng nghệ thuật tập trung ở câu "Cô chu nhất hệ cố viên tâm".
"Cô chu" là con thuyền đơn độc trên sông, vừa là hình ảnh thực, vừa là biểu tượng nghệ thuật. Khi chạy loạn, gia đình Đỗ Phủ sống trên con thuyền thả trôi trên sông Trường Giang, không thể trở về quê hương. Hình ảnh con thuyền còn mang ý nghĩa khái quát, biểu tượng cho thân phận lênh đênh của con người. Năm 765, Đỗ Phủ rời Thành Đô đến Vân An rồi Quỳ Châu. Hai năm xa quê, hai mùa hoa cúc nở, hai mùa thu đau đáu nhớ nhà.
Người ta rời quê hương đi xa vì nhiều lý do khác nhau. Đối với nhân vật trữ tình trong bài thơ này, lý do xa quê là vì chạy loạn. Đây là lý do khắc nghiệt và đau thương nhất. Loạn lạc gây ra bao nỗi đau, nhìn hoa cúc nở mà lòng đau như hoa cúc cũng rơi lệ. Nguyễn Công Trứ dịch câu thơ này thành: "Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ". Câu thơ dịch không làm rõ được ý nghĩa nguyên tác. Theo phần dịch nghĩa, có thể hiểu rằng người xa quê đã hai năm, nhưng dòng nước mắt nhớ quê không chỉ rơi trong hai năm mà đã từng rơi trước đó. Đó không chỉ là nước mắt của người chạy loạn mà còn là nước mắt của nỗi đau đời. Nỗi đau được phản ánh qua một tâm hồn nhạy cảm. Bao nỗi đau chất chứa trong lòng.
Tâm trạng "cố viên tâm" tiếp tục được thể hiện trong bảy bài thơ còn lại của chùm Thu hứng. Bài Thu hứng mang tính chất như một "cương lĩnh sáng tác" của cả chùm thơ. Nỗi nhớ quê càng da diết hơn khi người xa quê muốn trở về mà không thể. Hai câu luận của bài thơ cùng phát triển một ý thơ, là điểm sáng thẩm mỹ và cũng là tâm trạng của nhân vật trữ tình. Vì nỗi nhớ quê hương, nhớ cuộc sống thanh bình nơi quê nhà xưa mà tâm trạng u uất, cảnh mùa thu vốn đã buồn lại càng nhuốm màu li biệt. Một con thuyền lẻ loi trên dòng Trường Giang dậy sóng là nơi trú ngụ của kẻ tha phương. Hướng về quê hương nhưng phía trước là cửa ải mịt mù, dòng sông cuộn sóng, loạn lạc binh đao. Một con thuyền nhỏ không đủ sức vượt qua những cản trở đó để trở về quê hương. Nỗi nhớ nhân lên khi nghe tiếng chày đập áo, âm thanh quen thuộc và ấm áp của cuộc sống thường nhật:
Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Những ngày cuối đời sống ở Quỳ Châu, Đỗ Phủ phải sống trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Đói rét hành hạ thân xác, nỗi nhớ, nỗi đau, niềm u uất dày vò trong lòng. Lang thang trên con thuyền nhỏ rách nát, ông càng khao khát một ngôi nhà ấm áp. Cuối thu, người ta bắt đầu chuẩn bị áo ấm cho mùa đông dài giá buốt. Tiếng chày đập áo, ngày thường thật giản dị, nhưng trong cảnh ngộ của nhân vật trữ tình lúc này, nó có tác động rất lớn. Nó là biểu tượng cho cuộc sống yên bình, điều mà nhà thơ đang khao khát. Sự đối lập giữa cảnh thu hiu hắt lạnh lẽo với tiếng chày đập áo trên thành Bạch Đế gợi lên sự đối lập của hai cuộc sống. Một bên là tha phương đói rét, một bên là ấm áp bình yên, càng làm tăng nỗi nhớ quê hương của người lữ khách. Tiếng chày đập áo có sức gợi cảm rất lớn, nhất là trong mạch tâm trạng này của nhân vật trữ tình. Tiếng chày đập áo trong bóng chiều tà thật buồn, nó càng làm rõ thêm cảnh ngộ bi thương của người xa quê, tạo nên dư âm vang vọng cho bài thơ.
Bài thơ không chỉ là tâm trạng của một Đỗ Phủ trong cảnh ngộ cụ thể. Bài thơ là tâm trạng của nhiều người, của nhiều thời đại khi họ phải sống trong cảnh biệt li, nhất là biệt li trong loạn lạc. Cảnh và tình kết hợp chặt chẽ tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật và chiều sâu tư tưởng của bài thơ. Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình, bài thơ tố cáo mạnh mẽ những cuộc chiến tranh phi nghĩa, nguyên nhân cơ bản đẩy con người vào cảnh ngộ thương tâm. "Thu hứng" vừa là nỗi u sầu của người nhớ quê, vừa là niềm khao khát một cuộc sống yên bình của mỗi người dân. Ai đã từng sống trong chiến tranh, từng chịu cảnh loạn li ắt hẳn sẽ đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ này.
Phần lớn thơ của Đỗ Phủ là thơ luật. "Thu hứng" cũng nằm trong số đó. Về cấu tứ và hình ảnh, không có gì quá xa lạ. Đó đều là những thi liệu được các nhà thơ đời Đường ưa thích sử dụng. Nhưng với tài năng tinh luyện ngôn ngữ, sử dụng thanh bằng trắc và tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước, nhà thơ đã sáng tạo nên một thi phẩm giàu xúc cảm, vừa gợi cảm vừa giàu giá trị nhân văn. Bài thơ là một bức tranh tâm cảnh, bắt đầu từ cảnh để biểu lộ tình. Nó mang vẻ đẹp cổ điển về ngôn ngữ, thi liệu, cấu tứ và nồng nàn hơi thở thời đại.
Bài thơ Thu hứng 1 là bài thứ nhất - mang tính chất cương lĩnh trong chùm thơ Thu hứng gồm tám bài thất ngôn bát cú Đường luật của Đỗ Phủ, khi nhà thơ ở Quỳ Châu, lòng hướng về "vườn cũ" (cố viên). Đọc thêm Thu hứng 4 để thấy vẫn mạch cảm xúc ấy, nhưng cụ thể, mãnh liệt hơn, hồi tưởng những cảnh thăng bình của thủ đô Trường An những ngày còn thịnh trị.
Cảm nhận bài Cảm xúc mùa thu - Mẫu 7
Cảm xúc mùa thu là một trong những sáng tác tiêu biểu trong chùm thơ mùa thu của Đỗ Phủ - nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc thời nhà Đường. Mùa thu vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca, nhưng với Đỗ Phủ, mùa thu mang một nét riêng độc đáo, được thể hiện qua cảm xúc sâu sắc và tài năng nghệ thuật của ông.
Bốn câu thơ đầu tiên, tác giả khắc họa mùa thu trong một bối cảnh không bình thường:
"Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn, vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm".
Dịch thơ:
"Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt khí thu lòa,
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa".
Trong thơ ca cổ điển, rừng phong lá đỏ thường là biểu tượng đẹp đẽ và hoành tráng của mùa thu. Tuy nhiên, ở đây, rừng phong không mang màu sắc rực rỡ mà chìm đắm trong sương thu lạnh lẽo. Hai chữ "điêu thương" tạo nên sự tương phản với hình ảnh mùa thu lãng mạn thường thấy. "Ngọc lộ" (sương móc) không tạo nên vẻ đẹp mà gợi lên nỗi "điêu thương" (tiêu điều) bao trùm lên rừng phong. Những câu thơ tiếp theo củng cố thêm cảm giác bất an. Những địa danh như núi Vu, kẽm Vu nổi tiếng với sự hiểm trở được miêu tả sinh động. Khí thu hiu hắt, mây mù mịt, sóng vỗ tận trời, gió lạnh tựa cõi âm. Không gian đầy bất trắc, phản ánh hiện thực nơi cửa ải, gợi nỗi buồn cho người xa xứ.
Nửa sau bài thơ mang theo những tâm sự sâu kín của thi sĩ:
"Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm".
Dịch thơ:
"Khóm cúc tuôn đôi dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà"
(Nguyễn Công Trứ dịch)
Nỗi buồn li biệt khiến hoa cúc như rơi lệ. Những khóm cúc qua mùa thu tưởng chừng thêm hương thêm sắc, nhưng hóa ra chỉ thêm giọt lệ. Lệ của hoa và nước mắt của người. Tấc lòng hướng về quê cũ, vườn xưa thanh bình như một sợi dây vô hình buộc chặt con thuyền cô quạnh, con thuyền định mệnh từng lênh đênh cùng nhà thơ, kể cả khi trở về cõi vĩnh hằng. Chủ đề bài thơ và tâm sự của tác giả được gửi gắm sâu sắc trong hai câu thơ, được xem là tuyệt tác của bài thơ này nói riêng và thơ Đường nói chung:
"Khóm cúc tuôn đôi dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà"...
Hai câu thơ tạo nên một tiểu đối hoàn chỉnh về âm điệu và ý nghĩa, như những giọt nước mắt cô đọng, chứa đựng cảm xúc sâu thẳm.
Đến hai câu thơ cuối, tác giả trở về với hiện thực trực quan, nhưng vẫn đầy chất gợi cảm:
"Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà".
Ở đây, hình ảnh chuẩn bị áo ấm cho mùa đông sắp tới mang đầy xúc động. Cái lạnh lùng của thời tiết thúc giục những người thợ may, giặt giũ, chuẩn bị áo ấm. Trong thơ cổ Trung Quốc, tiếng chày đập lụa giặt áo mang sức gợi lớn lao. Nó không chỉ là tập quán mà còn là biểu tượng. Bạch Cư Dị từng viết bài thơ "Nghe tiếng chày đêm". Tiếng chày gợi nỗi bâng khuâng về sự ấm lạnh, về khoảnh khắc chuyển mùa, về tình cảm đôi lứa... Trong hai câu thơ này, những từ như "xứ xứ", "cấp" cùng với "thôi xích", "Bạch đế thành" còn gợi lên khung cảnh binh đao, thời loạn lạc, nội chiến mà khắp nơi đang phải gánh chịu.
Thơ Đỗ Phủ mang linh hồn riêng, không bị gò bó bởi khuôn khổ Đường thi với cấu trúc: đề - thực - luận - kết. Bài thơ chia làm hai phần rõ rệt: bốn câu đầu tập trung vào ngoại cảnh, bốn câu sau chứa đựng nhiều tâm sự. Bài "Cảm xúc mùa thu" vừa gắn liền với thẩm mỹ thơ ca cổ điển, vừa mang nét mới mẻ. Nhờ gắn liền với hiện thực cuộc sống, sức tả và sức gợi của bài thơ trở nên mạnh mẽ. Chính chất hiện thực đã tạo nên sức sống bền bỉ cho tác phẩm này.
- Tả cánh đồng quê em: 3 Dàn ý chi tiết và 47 bài văn mẫu lớp 5 đặc sắc
- Đọc: Những trang sách tuổi thơ - Tiếng Việt 4 Cánh diều, Tập 1, Bài 4 - Khám phá thế giới tuổi thơ qua từng trang sách
- Viết bài luyện tập miêu tả cây cối - Sách Tiếng Việt lớp 4 Cánh Diều, Tập 1, Bài 4
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 9 - Ngữ văn lớp 7 tập 2 sách Cánh diều
- Chia sẻ và khám phá: Những thư viện độc đáo - Sách Tiếng Việt 4 Cánh diều, Tập 1, Bài 4