Soạn bài Kể lại một truyền thuyết - Ngữ văn lớp 6 trang 20 sách Kết nối tri thức tập 2: Hướng dẫn chi tiết và sáng tạo
Vì thời gian học trên lớp khá hạn chế, học sinh lớp 6 thường cần chuẩn bị bài môn Ngữ Văn trước ở nhà để tiếp thu kiến thức hiệu quả hơn.

EduTOPS mang đến tài liệu học tập Soạn văn 6: Kể lại một truyền thuyết, thuộc bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, giúp học sinh nắm vững kiến thức một cách dễ dàng và thú vị.
Soạn bài Kể lại một truyền thuyết - Mẫu 1: Hướng dẫn chi tiết và sáng tạo
1. Trước khi bắt đầu bài nói
a. Chuẩn bị nội dung bài nói
- Lựa chọn truyền thuyết và ngôi kể phù hợp:
- Hãy chọn một truyền thuyết mà em yêu thích, có nội dung hấp dẫn, giàu ý nghĩa và độ dài vừa phải. Nếu được yêu cầu kể một truyền thuyết cụ thể, hãy đọc kỹ để nắm bắt các sự kiện và chi tiết nổi bật.
- Chọn ngôi kể thứ ba (giống như trong truyền thuyết mà em đã đọc hoặc nghe).
- Tóm tắt câu chuyện: Ghi lại các sự kiện chính theo trình tự hợp lý (thường theo thứ tự thời gian hoặc nguyên nhân - kết quả) để dễ dàng ghi nhớ và kể lại.
- Xác định từ ngữ then chốt và giọng kể phù hợp: Ghi nhớ chính xác các từ ngữ chỉ thời gian, địa điểm, và những lời nói quan trọng của nhân vật. Chọn giọng kể phù hợp với nội dung câu chuyện.
b. Tập luyện bài nói
- Tập luyện một mình hoặc cùng bạn bè, người thân.
- Có thể sử dụng thêm các phương tiện hỗ trợ nếu cần thiết.
2. Trình bày bài nói
- Giọng kể cần trang nghiêm nhưng linh hoạt, thay đổi phù hợp với nội dung câu chuyện và ngôn ngữ của nhân vật. Kết hợp ngôn ngữ cơ thể (điệu bộ, ánh mắt, cử chỉ) để tăng tính sinh động.
- Tránh kể dàn trải, tập trung vào các sự việc quan trọng. Chú ý cách chuyển tiếp giữa các sự kiện để tạo sự liền mạch và hấp dẫn cho câu chuyện.
- Một số truyền thuyết kết thúc bằng việc dẫn đến một địa danh, sự vật hoặc hiện tượng vẫn tồn tại trong cuộc sống hiện đại. Hãy tìm hiểu kỹ về điều này để bài nói thêm phần thú vị và sâu sắc.
3. Sau khi nói
- Người nghe:
- Yêu cầu người nói kể lại hoặc làm rõ các chi tiết liên quan đến sự việc được kể.
- Đưa ra nhận xét về nội dung và cách kể chuyện.
- Người nói:
- Bổ sung và làm rõ các chi tiết hoặc diễn biến trong câu chuyện.
- Trao đổi lại với người nghe về các ý kiến nhận xét. Cảm ơn và tiếp thu những góp ý xác đáng.
* Hướng dẫn bài nói:
- Mẫu 1:
Ngày xửa ngày xưa, vào thời vua Hùng Vương thứ mười sáu, có một đôi vợ chồng già sống ở làng Gióng. Dù hiền lành và đôn hậu, họ vẫn chưa có được một đứa con. Một ngày nọ, bà lão ra đồng và phát hiện một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà đặt chân mình lên ướm thử. Không lâu sau, bà mang thai và sinh ra một cậu bé khôi ngô nhưng kỳ lạ thay, cậu không biết nói, cười hay đi lại. Hai ông bà từ vui mừng chuyển sang lo lắng vì không hiểu nguyên nhân.
Lúc bấy giờ, giặc Ân xâm lược nước ta, khiến dân chúng lầm than. Nhà vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng gọi mẹ: "Mẹ ơi, mời sứ giả vào đây cho con". Hai ông bà vô cùng ngạc nhiên và vui mừng, liền mời sứ giả vào nhà.
Cậu bé yêu cầu sứ giả chuẩn bị ngựa sắt, áo giáp sắt và roi sắt để đánh giặc. Từ đó, cậu lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, quần áo chẳng mấy chốc đã chật. Cậu trở thành một chàng trai cao lớn, khí phách hiên ngang.
Khi nhận được vũ khí, Thánh Gióng lên đường đánh giặc. Cậu dùng roi sắt quật tan quân thù, khi roi gãy thì nhổ tre đánh giặc. Sau khi dẹp yên giặc, Thánh Gióng cởi áo giáp và bay lên trời tại chân núi Sóc Sơn.
Để tưởng nhớ công ơn của Thánh Gióng, vua Hùng cho lập đền thờ tại làng Gióng. Hàng năm, vào tháng tư, người dân vẫn đến đền thờ Phù Đổng Thiên Vương để tưởng niệm vị anh hùng dân tộc.
- Mẫu 2:
Kính chào thầy cô và các bạn, sau đây tôi sẽ kể về truyền thuyết Thánh Gióng.
Vua Hùng Vương về già, muốn tìm người kế vị. Nhà vua có hai mươi người con trai nhưng không biết chọn ai. Giặc ngoài đã dẹp yên, nhưng ngai vàng chỉ vững khi dân ấm no. Vua liền gọi các con lại và nói:
- Tổ tiên ta từ khi dựng nước đã truyền được sáu đời. Giặc Ân nhiều lần xâm lược, nhưng nhờ phúc ấm Tiên vương, ta đều đánh đuổi được. Nay ta già yếu, không thể sống mãi, nên người nối ngôi phải nối được chí ta. Không nhất thiết là con trưởng. Nhân dịp lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho.
Các lang cố gắng làm vừa lòng cha, nhưng ý vua cha ra sao thì không ai biết. Họ chỉ biết đua nhau làm cỗ thật hậu để dâng lễ Tiên vương.
Chỉ có Lang Liêu là không biết phải làm sao. Chàng là con thứ mười tám, mẹ chàng trước kia bị vua cha ghẻ lạnh rồi qua đời. So với anh em, chàng là người thiệt thòi nhất. Trong khi anh em sai người tìm của quý trên rừng dưới biển, Lang Liêu chỉ biết chăm lo đồng áng. Trong nhà chỉ có khoai, lúa, mà hai thứ này lại quá tầm thường.
Một đêm, Lang Liêu nằm mộng thấy thần hiện lên bảo:
- Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ gạo mới nuôi sống con người và ăn mãi không chán. Các thứ khác tuy ngon nhưng hiếm, mà không tự làm ra được. Vậy nên hãy lấy gạo làm bánh dâng lễ Tiên vương.
Tỉnh dậy, Lang Liêu vô cùng mừng rỡ. Chàng thấy lời thần thật đúng. Chàng chọn gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, vo thật sạch. Sau đó, chàng lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong gói thành hình vuông, nấu chín nhừ. Để đổi vị, chàng cũng đồ gạo nếp, giã nhuyễn rồi nặn thành hình tròn.
Ngày lễ Tiên vương, các lang mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng đến. Nhà vua xem qua rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu. Vua rất hài lòng, liền hỏi chuyện. Lang Liêu kể lại giấc mộng gặp thần. Nhà vua suy nghĩ rồi quyết định dâng bánh của Lang Liêu lên tế thần.
Tế xong, vua họp mọi người lại và nói:
- Bánh hình tròn tượng Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng Đất, nhân thịt mỡ, đậu xanh và lá dong tượng cầm thú, cỏ cây muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài ý chỉ sự đùm bọc, đoàn kết. Lang Liêu dâng lễ vật rất vừa ý ta, nên sẽ nối ngôi ta.
Từ đó, nước ta chăm lo nghề trồng trọt, chăn nuôi và có tục gói bánh chưng, bánh giầy vào ngày Tết. Thiếu hai món này, Tết sẽ mất đi hương vị truyền thống.
Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ mọi người.
Soạn bài Kể lại một truyền thuyết - Mẫu 2
Hướng dẫn bài nói:
Kính chào thầy cô và các bạn, sau đây tôi sẽ kể về truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh.
Vua Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, nàng không chỉ xinh đẹp tuyệt trần mà còn nết na, hiền dịu. Nhà vua yêu thương nàng hết mực nên muốn tìm cho nàng một người chồng xứng đáng.
Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người từ vùng núi Tản Viên, tên là Sơn Tinh, có tài lạ: vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên núi đồi. Người còn lại là Thủy Tinh, tài năng không kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Nhà vua thấy cả hai đều tài giỏi nên rất khó xử, không biết chọn ai. Vua liền triệu tập các Lạc hầu vào cung bàn bạc và đưa ra quyết định:
- Cả hai đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nên, ngày mai, ai mang sính lễ đến trước sẽ được ta gả con gái cho.
Sơn Tinh và Thủy Tinh nghe xong, liền hỏi sính lễ cần gì. Vua Hùng nói:
- Sính lễ gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước và được đón Mị Nương về. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, liền đem quân đuổi đánh Sơn Tinh.
Thủy Tinh hô mưa, gọi gió, tạo thành dông bão rung chuyển đất trời. Nước ngập khắp đồng ruộng, nhà cửa, dâng lên lưng đồi, sườn núi. Cả thành Phong Châu chìm trong biển nước, dân chúng khổ sở. Sơn Tinh không hề nao núng, dùng phép bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất chặn dòng nước lũ. Nước dâng lên bao nhiêu, đồi núi lại cao lên bấy nhiêu.
Suốt mấy tháng trời, hai thần giao chiến. Cuối cùng, Thủy Tinh kiệt sức, đành rút quân. Từ đó, mối thù càng thêm sâu đậm. Hằng năm, Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng đều thất bại.
Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ mọi người.
- Soạn bài Tự học - một thú vui bổ ích - Chân trời sáng tạo 7: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 7 trang 6 tập 2
- Ôn tập cuối năm học - Tiết 3 môn Tiếng Việt lớp 4 trong sách Cánh Diều Tập 2 trang 123
- Luyện từ và câu: Thực hành viết tên riêng cơ quan, tổ chức - Tiếng Việt 4 Cánh diều, Tập 2, Bài 18
- Ôn tập cuối năm học Tiết 1 - Tiếng Việt lớp 4 Cánh diều Tập 2 trang 121: Hướng dẫn chi tiết và hiệu quả
- Ôn tập cuối năm Tiết 4: Tiếng Việt lớp 4 - Sách Cánh Diều Tập 2 (Trang 123, 124)