Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến: 3 Dàn ý chi tiết và 19 bài văn mẫu siêu hay về Thu điếu
Phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến mang đến 19 bài văn mẫu xuất sắc, đạt điểm cao từ các học sinh giỏi. Thông qua những mẫu phân tích đa dạng về Câu cá mùa thu, bạn sẽ có thêm nguồn tư liệu phong phú để trau dồi kiến thức và nâng cao kỹ năng viết văn phân tích.

Bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, được sáng tác theo thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, nổi bật với ngôn ngữ tinh tế, giàu hình ảnh và cảm xúc. Tác phẩm không chỉ khắc họa bức tranh mùa thu đẹp đẽ mà còn thể hiện tâm hồn yêu nước thầm kín, sâu lắng của tác giả. Dưới đây là 19 bài phân tích Câu cá mùa thu hay nhất, mời bạn cùng khám phá. Ngoài ra, bạn có thể tham khảo thêm phần Mở bài Câu cá mùa thu để hoàn thiện bài viết của mình.
Dàn ý phân tích bài thơ Câu cá mùa thu
I. Mở bài
- Đôi nét về tác giả Nguyễn Khuyến: một nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng Nho giáo, các tác phẩm của ông thường xoay quanh đạo đức con người và hình ảnh người quân tử. Sau khi chứng kiến thực tại hỗn loạn, ông lui về ẩn dật và sáng tác những tác phẩm thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên thanh bình.
- Bài thơ Câu cá mùa thu: Là một trong ba bài thơ thu nổi tiếng, được sáng tác trong thời gian tác giả sống ẩn dật.
II. Thân bài
1. Hai câu đề
- Mùa thu được khắc họa qua hai hình ảnh vừa tương phản vừa hài hòa: “ao thu” và “chiếc thuyền câu” bé nhỏ.
- Màu sắc “trong veo”: gợi lên vẻ thanh nhẹ, tinh khôi của mùa thu.
- Hình ảnh: Chiếc thuyền câu bé tẻo teo ⇒ rất nhỏ, tinh tế.
- Cách gieo vần “eo”: mang đậm tính biểu cảm.
- Từ ao thu, tác giả mở rộng tầm nhìn ra mặt ao và không gian xung quanh ⇒ đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
⇒ Thể hiện rung cảm tinh tế của tâm hồn thi sĩ trước vẻ đẹp của mùa thu và tiết trời thu, gợi lên cảm giác yên bình, tĩnh lặng.
2. Hai câu thực
- Tiếp tục khắc họa mùa thu với những hình ảnh giàu sức gợi:
- Sóng biếc: Không chỉ gợi hình ảnh mà còn gợi lên màu sắc, đó là sắc xanh dịu nhẹ và mát mẻ, có lẽ là sự phản chiếu của bầu trời thu trong xanh.
- Lá vàng trước gió: Hình ảnh và màu sắc đặc trưng của mùa thu Việt Nam.
- Sự chuyển động:
- hơi gợn tí ⇒ chuyển động rất nhẹ ⇒ thể hiện sự quan sát tỉ mỉ của tác giả.
- “khẽ đưa vèo” ⇒ chuyển động rất nhẹ, rất khẽ ⇒ Sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc.
⇒ Nét đặc sắc riêng của mùa thu làng quê được khắc họa qua những hình ảnh giản dị, mang đậm “hồn quê dân dã”.
3. Hai câu luận
- Cảnh thu hiện lên với vẻ đẹp bình dị nhưng đượm buồn và tĩnh lặng:
- Không gian bức tranh thu được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu.
- Tầng mây lơ lửng: gợi cảm giác thanh nhẹ, gần gũi, yên bình và tĩnh lặng.
- Hình ảnh trời xanh ngắt: sắc xanh đặc trưng của mùa thu, không phải là màu xanh dịu nhẹ mà là một màu xanh thuần khiết, bao trùm không gian rộng lớn.
- Hình ảnh làng quê hiện lên qua “ngõ trúc quanh co”: một hình ảnh quen thuộc, gần gũi.
- Khách vắng teo: Vần “eo” gợi lên sự thanh vắng, yên tĩnh và tĩnh lặng.
⇒ Không gian mùa thu làng quê Việt Nam được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu, mang lại cảm giác tĩnh lặng và thanh vắng.
4. Hai câu kết
- Hình ảnh con người xuất hiện trong không gian thu tĩnh lặng với tư thế “Tựa gối buông cần”:
- “Buông”: Thả lỏng, thư giãn, đi câu để giải trí và ngắm cảnh thu.
- “Lâu chẳng được”: Không câu được cá, nhưng không phải là sự thất vọng mà là sự thư thái, hòa mình vào thiên nhiên.
⇒ Tư thế thư thái, thong thả ngắm cảnh thu và câu cá như một thú vui giúp tâm hồn thư thái ⇒ sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.
- Toàn bộ bài thơ mang vẻ tĩnh lặng, đến câu cuối mới xuất hiện tiếng động:
+ Tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” → sự chăm chú quan sát của nhà thơ trong không gian yên tĩnh của mùa thu, nghệ thuật “lấy động tả tĩnh”.
⇒ Tiếng động rất khẽ, rất nhẹ trong không gian rộng lớn càng làm tăng vẻ tĩnh vắng, “cái tĩnh được tạo nên từ một cái động rất nhỏ”.
⇒ Nhà thơ nói về câu cá nhưng thực chất không phải để bàn chuyện câu cá. Sự tĩnh lặng của cảnh vật gợi lên nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ, phản ánh tâm sự đau buồn trước tình cảnh đất nước đầy đau thương.
5. Nghệ thuật
- Bút pháp thuỷ mặc (dùng đường nét chấm phá) của Đường thi và vẻ đẹp “thi trung hữu hoạ” trong bức tranh phong cảnh.
- Vận dụng tài tình nghệ thuật đối.
- Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công.
- Cách gieo vần “eo” và sử dụng từ láy tài tình.
III. Kết bài
- Khẳng định lại những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
- Tác phẩm mang đến cho độc giả những cảm nhận sâu sắc về một tâm hồn yêu nước thầm kín nhưng vô cùng mãnh liệt.
Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Nguyễn Khuyến

Phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến - Vẻ đẹp tâm hồn và nghệ thuật đặc sắc
Phân tích Thu điếu - Mẫu 1
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn, có đóng góp không nhỏ trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ông thường mang vào trang thơ của mình những cảnh sắc đẹp đẽ, bình dị của làng quê yên bình. Thu điếu là một trong những bài thơ đặc sắc nằm trong chùm thơ thu (Thu điếu – Thu vịnh – Thu ẩm) của Nguyễn Khuyến. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên mùa thu vắng lặng, lạnh lẽo và đượm buồn, đồng thời cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên trong tâm hồn người thi sĩ.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã giới thiệu khái quát không gian, địa điểm thân thuộc và yên tĩnh của một buổi câu cá mùa thu:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Hình ảnh “ao thu” đặc trưng của làng quê Việt Nam bước vào trang thơ Nguyễn Khuyến thật chân thực. Mở ra trước mắt người đọc là cái ao mùa thu vùng chiêm trũng đất Bắc. Nhà thơ dùng tính từ “trong veo” để miêu tả “ao thu” ấy, trong veo chỉ sự trong vắt, trong đến mức mà người ta có thể nhìn xuống tận đáy hồ. Có lẽ, thời điểm này không còn là thời điểm chớm thu nữa mà là thời điểm giữa mùa thu hoặc cuối thu nên mới “lạnh lẽo” đến thế, chứ không se lạnh hay lành lạnh. Câu thơ gợi ra một khung cảnh với ao thu trong veo, trong vắt, tĩnh lặng nhưng lại lạnh lẽo, quạnh hiu. Giữa khung cảnh của một ao thu rộng và lạnh lẽo ấy lại xuất hiện thêm một chiếc thuyền nhỏ, càng làm cho không gian trở nên lạnh lẽo. Giữa cái rộng của ao thu đối lập với chiếc thuyền câu đã bé lại còn “bé tẻo teo” khiến cho hình ảnh chiếc thuyền trở nên nhỏ bé hơn, cô đơn hơn. Hai câu thơ mở đầu đều được nhà thơ gieo vần “eo” khiến không gian câu cá mùa thu trở nên lạnh lẽo mang một chút buồn.
Nếu như hai câu thơ đầu, nhà thơ giới thiệu cảnh sắc buổi câu cá mùa thu thật tĩnh lặng, thì ở những câu thơ tiếp theo, cảnh sắc mùa thu lần lượt hiện lên sống động hơn:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Câu thơ bắt đầu xuất hiện sự chuyển động của vạn vật mùa thu, dù sự lay động ấy chỉ nhẹ nhàng, khẽ khẽ. Người thi sĩ vẽ lên những hình ảnh “sóng biếc” chỉ “hơi gợn tí” còn “lá vàng” cũng chỉ “khẽ đưa vèo”. Hai từ “hơi” và “khẽ” thể hiện sự chuyển động rất nhẹ nhàng trong cảnh sắc mùa thu. Hẳn là thi nhân Nguyễn Khuyến phải tinh tế lắm mới nhận ra sự khẽ khẽ đó của thiên nhiên. Hình ảnh “sóng biếc” gợi cho người đọc một màu xanh biếc trên mặt ao trong, một màu xanh rất đẹp mắt và có sắc thái biểu cảm. Không chỉ có sóng biếc mà “lá vàng” cũng được đưa vào thơ Nguyễn Khuyến một cách tinh tế. Người ta thường nói mùa thu là mùa thay lá, mùa lá vàng và rụng xuống. Bởi thế mà lá vàng đã từng bước vào rất nhiều trang thơ thu. Trong thơ về mùa thu, Lưu Trọng Lư có viết:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Nhà thơ tiếp tục miên man tả cảnh sắc mùa thu êm đềm khi hướng tầm mắt ra xa hơn với bầu trời thu:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Đọc câu thơ, người đọc hình dung ra một bầu trời mùa thu cao vời vợi. Bởi lẽ một bầu trời cao trong vời vợi mới có một màu xanh ngắt. Nếu bên dưới ao thu được điểm tô là màu “biếc” của sóng thu, màu vàng của “lá” thu, thì ở ý thơ này lại là một màu “xanh ngắt” bao la, ngút ngàn. Và trên bầu trời thu ấy là những “tầng mây” đang “lơ lửng”. Từ láy “lơ lửng” diễn tả trạng thái dùng dằng, có trôi nhưng lại rất khẽ, rất thờ ơ của những đám mây. Dường như mùa thu cả không gian đất trời, cảnh sắc đều như trôi chậm lại. Nhà thơ trở lại với cảnh vật bên dưới, phía xa xa của những con ngõ nhỏ. Hình ảnh “ngõ trúc” hiện lên thật hoang vắng. Từ láy “quanh co” cùng “vắng teo” thể hiện một con ngõ ngoằn ngoèo, quanh co và không một bóng khách, gợi sự cô đơn, heo hút, man mác buồn.
Trước khung cảnh tĩnh lặng, quạnh quẽ và lạnh lẽo của mùa thu, nhà thơ trở lại với buổi câu cá mùa thu:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Xung quanh cái u buồn, vắng lặng của mùa thu, thi sĩ trở lại tập trung câu cá để khiến tâm hồn thêm thư thái. Hình ảnh “tựa gối” chỉ sự chăm chú nhưng đầy nghĩ suy thật lâu trước cảnh sắc đượm buồn mùa thu. Miên man trong những dòng cảm xúc buồn, cô đơn ấy nên khiến nhà thơ giật mình khi có chú cá nhỏ “đớp động dưới chân bèo”. Câu thơ cho thấy tâm trạng suy tư của nhà thơ, cảm giác buồn, một nỗi buồn xa vắng. Nhà thơ sáng tác bài thơ này khi ông về ở ẩn nơi thôn quê. Nếu đặt vào hoàn cảnh sáng tác bài thơ, người đọc càng hiểu hơn cái tình trong Thu điếu. Bởi bài thơ còn chất chứa cả một nỗi buồn thời thế, nhà thơ buồn cho thời buổi loạn lạc, lầm than lúc bấy giờ nhưng có ai để sẻ chia, giãi bày.
Thu điếu là một bài thơ đặc sắc của nhà thơ Nguyễn Khuyến, nằm trong số những tác phẩm tiêu biểu viết về mùa thu. Bài thơ mang đến cho người đọc ấn tượng sâu sắc bởi cảnh sắc mùa thu đẹp đẽ và tĩnh lặng, cùng tình yêu thiên nhiên tha thiết của Nguyễn Khuyến. Đồng thời, tác phẩm còn thể hiện những nỗi niềm thời đại và tình yêu nước thương dân sâu nặng trong trái tim người thi sĩ.
Phân tích bài thơ Thu điếu - Mẫu 2: Khám phá vẻ đẹp tâm hồn và nghệ thuật đặc sắc
Phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến - Vẻ đẹp tâm hồn và nghệ thuật đặc sắc
Phân tích Thu điếu - Mẫu 1
Mùa thu là đề tài quen thuộc của thơ ca Việt Nam. Thơ thu của văn học trung đại thường miêu tả cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ tượng trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật. Thu điếu của Nguyễn Khuyến cũng mang nét thư pháp ấy. Khi vị Tam Nguyên Yên Đổ được coi là quán quân về thơ thu, thì chùm ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm được đánh giá là tam tuyệt của thơ thu Việt Nam. Trong đó, đặc sắc nhất có lẽ là bài Thu điếu. Nhận xét về bài thơ này, Xuân Diệu có viết: “Bài Thu vịnh là có hồn hơn hết, nhưng ta vẫn phải công nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Không phải là Thu vịnh với không gian mênh mông bát ngát, mà là một Thu điếu được “gói gọn” trong một chiếc ao thu – ao chuôm đặc trưng vùng chiêm trũng Bắc Bộ – quê hương của cụ Tam Nguyên. Đằng sau cảnh thu vắng lặng là những nỗi niềm thầm kín của vị cao nhân:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu điếu cũng như Thu vịnh, Thu ẩm chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà. Thu điếu là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp luôn gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến.
Bối cảnh của toàn bài dường như được hiện hữu trong hai câu đầu. Khung cảnh trong bức tranh được bao trùm bởi cái lạnh lẽo của mùa thu và sự cô đơn trong lòng thi sĩ:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Ấn tượng đầu tiên của người đọc với bài thơ, chắc hẳn là cách gieo vần “eo” đặc sắc, tinh tế và có chút mạo hiểm. Hai câu thơ trên thể hiện sự co lại, đọng lại cho ta cảm giác lạnh lẽo bao trùm toàn cảnh cùng sự yên tĩnh, lẻ loi. Sách Gia Ngữ nói: “Thuỷ chí thanh tác vô ngư” nghĩa là nước trong quá thì không có cá. Ấy thế mà, Nguyễn Khuyến lại nhè đúng lúc “nước trong veo” để mà ngồi thuyền đi câu. Vậy, đặt tựa bài thơ là Câu cá mùa thu âu chẳng phải là làm một việc dường như không thể. Hay điều này thể hiện cái tình cảnh ngặt nghèo của nhà thơ? Nhà Nho Nguyễn Khuyến đỗ đạt bậc nhất thời đó, làm quan to nhưng trước cảnh nước nhà nhiều biến động, ông đã phải từ quan về quê dạy học. Vua quan bạc nhược, chỉ biết theo Pháp cầu an, kẻ sĩ đã thấy rõ, cái hoài bão giúp dân giúp nước thật quá khó khăn, chẳng khác gì “câu cá nước trong” được đề ngay từ câu đầu vậy. Sự so sánh vô lí giữa con thuyền với cái ao chẳng phải là thân phận của Nguyễn Khuyến đối với thời thế thiên nan vạn nan đang trùm lên ông? Câu thơ được chọn lọc từ ngữ, gieo vần bình dị, thân mật mang tính gợi cảm cao và hàm ý sâu sắc, ắt hẳn cụ Tam Nguyên phải là một người có tầm nhìn sâu rộng và lòng yêu quê hương vô bờ bến mới lột tả được cảnh vật từ tâm đến diện.
Xuân Diệu: “Cái thú của bài Thu điếu ở cái điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh trúc, xanh trời, xanh bèo”. Không chỉ xanh, ở hai câu thực bức tranh thiên nhiên ấy còn được tô một nét vàng:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước ngõ khẽ đưa vèo
Mùa thu tiếp tục được hiện lên với hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng”. Cảnh vật động một cách khẽ khàng. Tác giả đã rất nhạy cảm, tinh tế khi chớp được những biến động tinh vi của tạo vật. Đó là sự chuyển động “hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ khẽ khàng của lá vàng, là sự mong manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao. Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh, các sự vật có mối liên hệ với nhau chặt chẽ: gió thổi làm sóng gợn, làm lá rơi. Các tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”, “vàng”, “khẽ”, “vèo” được sử dụng hợp lí, giàu tạo hình, vừa tạo ra bức tranh thanh nhã vừa có xanh vừa có vàng, vừa gợi được sự uyển chuyển của tạo vật. Nghệ thuật đặc sắc lấy động tả tĩnh của tác giả đã khiến cái tình nay càng tĩnh hơn. Cái tĩnh nó nhẹ đến vô hình, vị thi sĩ này quả là một người có tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống sâu sắc thì mới có thể cảm nhận được sự im lặng đến thế.
Như trên đã nói, mở đầu bài thơ tác giả sử dụng vần “eo” nhưng khung cảnh lại không bị giới hạn mà đã mở rộng theo chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh vật:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Bầu trời xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. Chiều cao được cụ thể bằng sự “lơ lửng” của tầng mây và thăm thẳm của da trời xanh ngắt. Màu da trời mùa thu dường như ám ảnh sâu đậm trong lòng Nguyễn Khuyến nên trong các bài thơ thu, ông thường nhắc tới: “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” – Thu vịnh hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” – Thu ẩm. Bởi vậy, màu xanh ngắt của da trời không chỉ đơn thuần là một màu sắc mà có lẽ đó còn chính là tâm trạng nhiều ẩn ức, là chiều sâu tâm hồn đầy trăn trở của thi nhân. Trước đây, Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Ngay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian riêng, cảm hứng Nguyễn Khuyến trở về với khung cảnh làng quê quen thuộc, cũng vẫn hình ảnh cây tre, cây trúc; vẫn bầu trời ngày nào cùng ngõ xóm quanh co…, tất cả đều thân thương đượm màu làng cảnh Bắc Bộ. Nếu như chiều cao được đo bằng trời thì chiều sâu ắt là độ “quanh co” uốn lượn của ngõ trúc. Từ “vắng teo” cho thấy sự vắng lặng không một bóng người, không chút động tĩnh, âm thanh. Bởi thế, hai câu thơ gợi ra sự trống vắng, nỗi cô đơn trong lòng người.
Xuyên suốt sáu câu thơ đầu, tác giả cho ta thấy bức tranh mùa thu với điểm nhìn từ gần đến cao xa, từ cao xa trở về gần gụi. Bức vẽ mang màu sắc xanh thẳm, buồn bã, cô đơn và đầy tâm sự của thi sĩ. Chung quay lại, không gian thu cũng chính là không gian của tâm trạng: cõi lòng nhà thơ yên tĩnh, vắng lặng. Mọi tâm tư, giãi bày được dồn nén vào hai câu kết:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Hình ảnh con người xuất hiện với tư thế ngồi ôm gối, trong trạng thái trầm tư mặc tưởng. Nhà thơ ngồi câu cá nhưng chẳng hề chú tâm đến việc câu, bởi vậy mới giật mình trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Không gian phải yên tĩnh lắm, lòng người phải trong trẻo lắm mới nghe được âm thanh nhỏ nhẹ như vậy. Nói chuyện câu cá nhưng thực tế là để đón nhận cảnh thu, trời thu vào cõi lòng. Một tâm thế nhẫn: “tựa gối ôm cần”; một sự chờ đợi: “lâu chẳng được”; một cái chợt tỉnh mơ hồ: “cá đâu đớp động”. Nhà thơ mượn cảnh để tả tình. Câu cá chỉ là cái cớ để tìm sự thư thái trong tâm hồn. Âu cũng là cái sự vì nước vì dân. Đất nước ta đẹp thế, ấy vậy mà nhân dân lầm than. Cái hoài bão giúp dân từ đó mà mỗi ngày đều thêm khó khăn, và cũng tạo ra trong lòng cụ Tam Nguyên một rào cản; tạo sự buồn tẻ, cô đơn. Lòng người quạnh hiu chẳng cớ nào cảnh lại nhộn nhịp, vui tươi:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Thu điếu không chỉ đơn giản là một bài thơ thu. Từng câu chữ được nảy nở từ cảm nhận của các giác quan của vị thi nhân tài tình, lột tả được bức tranh thiên nhiên làng quê tươi đẹp của Việt Nam. Ai mà biết được quê hương mình đẹp và bình dị đến thế? Càng đọc, càng thấy được lòng yêu nước đang trào dâng. Từ đó, trong ta càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn với cái ham muốn bảo vệ và phát triển đất nước này.
Không chỉ thế, Thu điếu còn để lại trong ta bài học quý giá bao đời nay. Lòng tự tôn dân tộc không cho phép ta đầu hàng trước kẻ địch. Hãy như cụ Tam Nguyên, không ham hư vinh cái chốn quan trường mục nát mà ở lại làm quan; hay bán rẻ lương tâm, bán rẻ đồng bào vì một vài chức vụ, chỉ hận bản thân chưa làm được gì cho đất nước, cho Tổ quốc. Dù chỉ một chút, mong rằng bản thân con và toàn thể các thanh thiếu niên được sống trong hòa bình hiện nay sẽ ngày một cố gắng xây dựng đất nước.
Tất cả các tác phẩm trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, có thể nói là vô cùng tuyệt vời. Tuy nhiên, nếu để chọn một bài thơ tâm đắc nhất thì chắc chắn đó là Thu điếu. Tác phẩm này có thể coi là kiệt tác trong nền văn học cổ điển nước nhà. Bài thơ như vẽ ra một bức tranh mùa thu ở trước mắt tôi vô cùng chân thực. Nhạc điệu độc đáo, cách gieo vần có phần mạo hiểm mà tự nhiên, không bị gò bó. Theo Xuân Diệu, Nguyễn Khuyến quả thực là một nghệ sĩ cao tay. Cái tình của nhà thơ đi đôi với cái tài. Với một tình yêu quê hương, đất nước và con người Việt Nam, từng câu từng chữ mà tác giả nhắc đến đều tạo ra những cảm xúc trong tâm hồn rất Việt của chúng ta. Cụ Tam Nguyên quả đúng là một nhà thơ của làng quê Việt Nam bình dị và gần gũi.
Phân tích Thu điếu - Mẫu 2
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông là người học rộng, tài cao, đỗ đầu cả ba kì thi (Thi Hương, thi Hội, thi Đình) nên được người đời tôn trọng gọi bằng tên Tam nguyên Yên Đổ. Tuy tài cao, hiểu rộng nhưng Nguyễn Khuyến chỉ làm quan có mười năm rồi cáo quan, về quê ở ẩn. Chính vì vậy, ông gắn bó rất sâu nặng với làng quê đồng bằng Bắc Bộ và thường viết về những sự vật bình dị, gần gũi ở quê hương. “Câu cá mùa thu” chính là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Nguyễn Khuyến viết về đề tài mùa thu. Bài thơ đã làm nổi khung cảnh mùa thu ở làng quê và qua đó nói lên tâm sự thời thế của tác giả.
“Câu cá mùa thu” nằm trong chùm thơ có đề tài về mùa thu gồm ba bài thơ nức tiếng: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh được sáng tác khi Nguyễn Khuyến đã từ quan về ở ẩn tại quê nhà. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục bốn phần: đề, thực, luận, kết.
Bài thơ mở đầu bằng một không gian quen thuộc chốn làng quê – một chiếc ao thu và một chiếc thuyền câu nhỏ bé:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
“Ao thu”, “thuyền câu” – một hình ảnh quá đỗi thân thuộc với người dân vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ. Ao là một không gian nhỏ hẹp, vì thế mà sự xuất hiện của chiếc thuyền “bé tẻo teo” đã trở nên hài hòa, cân xứng. Chiếc ao nhỏ hẹp nên con thuyền cũng phải nhỏ bé theo. Nhà thơ đã đặc tả đặc điểm của ao thu đó là làn nước “trong veo”. Trong veo là rất trong, rất tĩnh lặng và có thể nhìn đến cả tận đáy. Và có lẽ, đã vào cuối thu nên không khí ao thu đã nhuốm hơi thở của tiết trời mùa đông và trở nên “lạnh lẽo”. Từ láy “lạnh lẽo” vừa gợi ra tiết trời se lạnh lại vừa diễn tả tĩnh lặng của không gian. Cảnh thu thật đẹp, thật trong trẻo, êm đềm. Tác giả rất tinh tế khi sử dụng tới bốn vần “eo” trong hai câu thơ, nó không chỉ có tác dụng miêu tả không khí lạnh lẽo, không gian eo hẹp rất đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc Bộ mà còn gợi ra cảm giác buồn bã, cô đơn trong lòng người.
Sang đến hai câu thực, bức tranh thu tiếp tục được khắc họa qua những nét vẽ cụ thể hơn, sắc nét hơn:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tác giả đã vận dụng rất tài tình nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Tả cái động “hơi gợn tí” của sóng, “khẽ đưa vèo” của lá để tô đậm cái sự tĩnh lặng của mùa thu làng quê Việt Nam xưa. Bởi vì không gian có tĩnh lặng thì người ta mới nghe được những âm thanh rất nhỏ, rất khẽ ấy. Không chỉ miêu tả cái tĩnh, hai câu thơ còn tiếp tục làm nổi bật vẻ đẹp trong trẻo, nên thơ của mùa thu. Điểm xuyết vào giữa bức tranh thu tĩnh lặng ấy là màu vàng của chiếc lá thu rơi – một màu sắc rất đặc trưng cho mùa thu. Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến không lấy màu vàng làm gam màu chủ đạo mà điểm xuyết, len lỏi giữa màu xanh của trời, của nước, của ngõ trúc mà thôi. Chữ “vèo” được tác giả sử dụng thật tinh tế, diễn tả trạng thái rất nhanh và dứt khoát. Chỉ cần một làn gió nhẹ, chiếc lá vàng đã nhanh chóng đánh “vèo” xuống mặt ao, rơi khỏi cành mà không hề lưu luyến. Có thể nói, hai câu thơ đã tô đậm thêm vẻ trong trẻo, tĩnh lặng, nên thơ của bức tranh mùa thu và qua đó, người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ Nguyễn Khuyến.
Bức tranh thu tiếp tục được mở rộng ở cả không gian chiều cao và chiều sâu:
Tầng mây lơ lửng, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo.
Nhà thơ hướng tầm mắt lên cao để ngắm nhìn bầu trời cao rộng, xanh trong, thoáng đãng với những áng mây lơ lửng giữa không trung. Màu “xanh ngắt” là nét đặc trưng đặc biệt của bầu trời thu Bắc Bộ. Trên nền trời xanh thẳm ấy là những áng mây “lơ lửng”. Từ láy “lơ lửng” diễn tả những áng mây dường như không trôi theo gió mà ngưng đọng lại lưng chừng trời đồng thời còn gợi ra trạng thái mơ màng trong lòng người. Nhà thơ lại hướng tầm mắt về gần hơn, dưới mặt đất để ngắm nhìn quang cảnh xung quanh với ngõ trúc quanh co, ngoằn ngoèo, sâu hun hút, không hề có bóng dáng qua lại của con người. Từ “quanh co” không chỉ để tả con ngõ nhỏ, sâu mà còn gợi cho người đọc liên tưởng đến những suy nghĩ không lối thoát của con người. Bởi vậy, cảnh tuy đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn. Đằng sau bức tranh phong cảnh, ta vẫn cảm nhận được tâm hồn tha thiết với thiên nhiên, cuộc sống.
Tới hai câu kết của bài thơ, người đọc mới thấy bóng dáng của người đi câu cá:
Tựa gối ôm cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Người đi câu hiện ra với tư thế có phần nhàn tản: tựa gối ôm cần. Dường như người ngồi câu nhưng lại không để tâm đến việc câu cá. Sự chờ đợi mà không chờ đợi, không kêu ca, buồn phiền về việc không được cá “lâu chẳng được” mà dường như đang suy nghĩ mông lung để cuối cùng thờ ơ với việc “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Rõ ràng, người đi câu nhưng không chú tâm đến việc câu cá và đó cũng chẳng phải là mục đích khiến ông “ôm cần”. Đó chính là hình ảnh của nhà thơ trong những ngày cáo quan, lui về ở ẩn. Chốn quan trường khiến ông chướng tai gai mắt, ông tìm về quê với thú vui điền viên. Ông đi câu chẳng qua là để tìm một chốn thanh tĩnh mong thoát khỏi những ý nghĩ về thời cuộc. Thế nhưng, ông đã không làm được điều đó bởi tâm trí ông vẫn không nguôi những suy nghĩ miên man về non sông, đất nước. Nhà thơ muốn tìm sự bình yên khi ôm cần, buông câu, đắm chìm trong cảnh vật nhưng vẫn không thể thôi trăn trở, ưu tư với sự đời.
Với bút pháp thủy mặc Đường thi và vẻ đẹp “thi trung hữu họa”, cùng nghệ thuật đối tài tình và hệ thống từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên bức tranh mùa thu trong trẻo, thanh sơ, tĩnh lặng và man mác nỗi buồn từ sâu thẳm cõi lòng thi nhân.
Có thể nói, “Câu cá mùa thu” thực sự là bài thơ “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam” như nhà thơ Xuân Diệu đã từng nhận định. Qua bài thơ, ta hiểu được tấm lòng yêu thiên nhiên, đất nước và tâm sự thời thế của tác giả. Bài thơ nói riêng, chùm thơ thu nói chung sẽ còn mãi trong lòng người yêu thơ bao thế hệ.
Phân tích bài thơ Thu điếu - Mẫu 3
Được mệnh danh là “Tam Nguyên Yên Đổ”, Nguyễn Khuyến không chỉ là một người tài có công với đất nước, ông còn là một thi nhân với nhiều tác phẩm sống mãi với thời gian. Bài thơ “Thu điếu” được trích từ một trong ba bài về chùm thơ thu của ông. Bài thơ là bức tranh miêu tả khung cảnh mùa thu của làng quê Việt Nam khi thời tiết đã cuối thu đầu đông. Không chỉ vậy, đó còn là những hoạt động, tâm tư của con người về cuộc sống.
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học nước nhà, thơ của ông luôn nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng lại mang nhiều giá trị nhân sinh cũng như những triết lý sâu sắc. Không chỉ vậy, ông còn là một người hiền tài, yêu nước thương dân, sẵn sàng đặt lợi ích của đất nước lên trên lợi ích của bản thân mình. Cũng có lẽ bởi vậy, mà trong thơ của mình, ông thường viết về thiên nhiên, về con người, về cuộc sống ở nơi làng quê Việt Nam. Lên làm quan vào thời điểm nước mất nhà tan, tình hình chính trị loạn lạc, ông lựa chọn cáo quan về quê ở ẩn, sống một cuộc đời an nhàn, bình dị nơi quê nhà, nhưng trong thâm tâm, ông vẫn chưa từng nguôi nỗi lòng, suy nghĩ về việc dân, việc nước.
Tập thơ thu của ông gồm ba bài thơ “Thu Vịnh”, “Thu Điếu” và “Thu Ẩm”. Trong đó, “Thu Điếu” cũng là bài thơ nổi bật nhất trong tập ba bài thơ trên. Bài thơ “Thu Điếu” đã miêu tả cho chúng ta bức tranh thu tĩnh lặng, cũng là nỗi niềm, tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với quê hương của mình. Đặt trong hoàn cảnh đó, đó còn là sự trầm lắng của một thi nhân “tài hoa bất đắc chí”.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã miêu tả cho chúng ta về khung cảnh nơi mà nhân vật trữ tình ngồi câu cá, một không gian rộng lớn, cảm tưởng như lại càng rộng lớn hơn khi chỉ có một sự vật ở giữa không gian ấy. Mặt nước “trong veo” như một tấm gương rộng lớn, phản chiếu cảnh vật xung quanh. Khi cúi xuống, tưởng chừng như có thể nhìn thấy những sinh vật ở dưới phía đáy. Thế nhưng, khung cảnh to lớn ấy càng làm chúng ta thấu cảm được cái lạnh lẽo của không gian.
Nhưng, ở giữa không gian lạnh lẽo ấy, vẫn không làm sự sống bị mờ nhạt đi. Hai câu thơ tả thực tiếp theo đã cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của sự sống vẫn đang hiện hữu. Màu sắc như hòa quyện với nhau, tạo nên sự hài hòa của sự vật, hiện tượng đời sống. Màu xanh tuy làm chủ đạo cho bài thơ với những gam màu xanh khác nhau như “xanh biếc”, “xanh ngắt” làm không gian trầm lặng hơn, mang sắc lạnh nhiều hơn, nhưng điểm xuyết vào đó vẫn có màu vàng của lá cây. Chỉ là một chấm nhỏ ấy thôi, nhưng như làm bừng sáng cả một không gian, cũng như khiến con người ta cảm giác như đang được sưởi ấm. Phép đối tài tình làm nổi bật nét thu, tô đậm lên hai giác quan mà con người cảm nhận được không gian xung quanh. Chữ “vèo” tưởng chừng như bình thường, nhưng lại là phát hiện tuyệt vời, mà sau này nhân sĩ Tản Đà vừa khâm phục, cũng lại vừa tâm đắc. Không gian như lại được mở rộng ra ở hai câu thơ tiếp theo. Bầu trời cao, trong xanh vời vợi là một trong những đặc điểm nổi bật nhất khi nhắc đến mùa thu. Mây trắng lười biếng, lơ lửng trôi nổi trên nền trời trong vắt. Con người dường như cũng không xuất hiện, khi “khách vắng teo”. Cảm tưởng như thật tĩnh lặng, heo hút. Tất cả như đã gói gọn lại, như đã cô đọng lại để tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Đây cũng là khung cảnh thường nhìn thấy mỗi khi mùa thu ghé tới thăm chúng ta.
Sáu câu thơ đầu tiên đã đưa ta đến gần hơn với khung cảnh thiên nhiên làng quê Việt Nam vào mùa thu. Chỉ tới hai câu thơ cuối cùng, thì mới có sự xuất hiện của con người. Nhưng con người cũng thật yên lặng, như hòa mình vào cùng với không gian vậy. Hình ảnh của con người thật nhàn nhã, cảm tưởng như đang tận hưởng vẻ đẹp của đất trời mùa thu. Người câu cá như đang thả mình theo làn sương hơi, trôi bồng bềnh vào mộng đẹp của mùa thu mang lại. Chỉ tới khi nghe thấy tiếng cá quẫy nước, người câu cá dường như mới chợt bừng tỉnh khỏi mộng cảnh. Một tâm hồn thanh cao, không vướng bụi đời. Trông thì thật cô đơn, nhưng có lẽ lại không cô đơn như chúng ta vẫn hằng tưởng. Trông thì thật tĩnh lặng, thế nhưng trong thâm tâm nhân vật trữ tình - ở đây cũng có thể hiểu là tác giả Nguyễn Khuyến có lẽ đang trào dâng những suy nghĩ, những trăn trở vì việc dân, việc nước.
Có thể nói, bài thơ “Thu Điếu” (hay “Câu cá mùa thu”) là một tác phẩm ấn tượng, nổi bật mỗi khi chúng ta nhắc tới thơ ca Trung Đại. Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến hay “Thu Điếu” sẽ mãi là ánh sao sáng trên nền trời văn học Việt Nam.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 4
Câu cá không chỉ là thú vui tao nhã của các bậc trí thức mà còn là cách để họ tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn. Những bậc hiền nhân tài hoa thường chọn câu cá như một phương thức chờ đợi thời cơ. Khi ngồi bên bờ nước, họ không nghĩ đến những chuyện xa xôi mà chỉ tập trung vào thế sự đang đảo điên. “Cá ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ” (có người còn dùng lưỡi câu thẳng như Khương Tử Nha - Trung Quốc). Có những bậc đại nhân lại chọn câu cá như một cách để hòa mình vào thiên nhiên, tận hưởng sự nhàn tản và suy tư trong trạng thái thư giãn. Nguyễn Khuyến cũng đi câu theo cách này. Ông đã mở rộng mọi giác quan để cảm nhận trọn vẹn mùa thu, mùa câu cá đặc trưng của miền Bắc. Giống như những đứa trẻ trong xóm, ông câu cá với sự chăm chú, hồi hộp và say mê. Kết quả của cuộc chơi ấy là bài thơ “Thu điếu”, một kiệt tác của nền văn học Việt Nam:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Bài thơ khắc họa hình ảnh mùa thu trong một không gian nhỏ hẹp, nơi làng quê của tác giả, với chiếc ao nhỏ và chiếc thuyền câu nhẹ nhàng trôi:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Cái tôi trữ tình của tác giả ẩn sau từng câu chữ. Cảm nhận của thi nhân hiện lên một cách sắc sảo và tinh tế. Mùa thu đã vào độ chín, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” như một tấm gương phản chiếu cảnh sắc làng quê. Làng Bùi của nhà thơ nằm giữa vùng đồng chiêm trũng với nhiều ao nhỏ. Ao nhỏ nên thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”, vần “eo” là một thử thách khó khăn, nhưng câu thơ vẫn trôi chảy tự nhiên, không hề gượng ép.
Thuyền câu đã hiện ra nhưng người câu vẫn chưa thấy đâu. Cũng chưa thấy cần câu hay nhợ câu. Người đi câu vẫn đang mải mê với cảnh trời nước mùa thu:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo.
Ao thu không còn tĩnh lặng nữa mà đã nổi sóng với hai thanh trắc ở đầu câu (sóng biếc) và hai thanh trắc ở cuối câu (gợn tí). Sóng nhỏ vì ao nhỏ, lại nằm trong chỗ khuất. Gió nhẹ, gió heo may mùa thu. Sóng lại có màu sắc, “sóng biếc” thật đẹp. Ngòi bút của tác giả tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc" đối với “lá vàng”, đều là màu sắc đặc trưng của mùa thu. “Hơi gợn tí” đối với “khẽ đưa vèo”, vận động của chiều dọc tương xứng với vận động của chiều ngang thật tài tình.
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo" trên mặt ao trong veo. Cái màu vàng của mùa thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi ca:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
(Lưu Trọng Lư)
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
(Bích Khê)
Và đây là chiếc lá vàng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu điếu” dưới ánh mắt của Xuân Diệu: “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi...”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.
Nhà thơ mở rộng không gian lên chiều cao, tạo nên một bầu khí khoáng đạt và mở rộng tầm nhìn, giúp bức tranh "Thu điếu” thêm phần sống động với những đường nét và màu sắc tinh tế:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Màu xanh da trời “xanh ngắt” hiện lên thật đẹp, một màu xanh tha thiết và sâu thẳm. Trong màu “xanh ngắt” ấy, ta cảm nhận được chiều cao vời vợi của bầu trời. Những áng mây trắng không trôi mà “lơ lửng” trên nền trời “xanh ngắt”, tạo nên một khung cảnh thanh bình. Tác giả sau đó trở về với cận cảnh làng quê thân thuộc. “Ngõ trúc quanh co”, con đường làng uốn lượn dưới bóng tre mát rượi. Trong thơ Nguyễn Khuyến, tre thường được gọi là trúc, như trong câu “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh) hay “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Nguyễn Khuyến yêu thích hình ảnh loài cây đầy khí phách này, “Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. Những nét thẳng của trúc tương phản với đường làng quanh co, tạo nên một sự tương phản đầy gợi cảm. Trời lạnh, đường quê vắng vẻ, “khách vắng teo”. Bức tranh thu mang một nỗi buồn man mác. Các thi sĩ thường miêu tả mùa thu trong sự tĩnh lặng, đẹp nhưng buồn. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
(Đây mùa thu tới)
Bài thơ khép lại với hình ảnh người đi câu như một nét tự họa chân thực:
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, phù hợp với khung cảnh ao nhỏ và chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Người đi câu đang chìm đắm trong suy tư thì một cử động nhẹ đã đánh thức nhà thơ:
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, động) miêu tả một chút xao động trong làn nước ao và cũng là sự xao động trong tâm hồn nhà thơ, thật tài tình và sâu sắc.
Có ý kiến cho rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha, và nhà bình luận đó đã hết lời ca ngợi cả hai. Nhưng không! Nguyễn Khuyến không còn chờ thời cơ. Nhà thơ chỉ muốn hòa mình vào thiên nhiên, vào non nước. Toàn bộ hình tượng thơ “Thu điếu” đã chuẩn bị cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, ao nhỏ, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, hòa điệu với thiên nhiên, tan hòa với non nước. Vậy thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyến lại giống với Khương Tử Nha được? Đồng tình với ai là chuyện riêng, còn tôi, tôi đồng tình với Nguyễn Khuyến.
Trong chùm thơ viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến, nếu phải chọn một bài, tôi sẽ chọn “Thu điếu”. Bài thơ này là một kiệt tác trong nền thơ cổ điển Việt Nam. Bức tranh mùa thu được miêu tả bằng những màu sắc tinh tế và đường nét gợi cảm. Nhạc điệu bài thơ cũng độc đáo, vần gieo hiểm hóc mà vẫn tự nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ không có chữ nào thừa. Thật là một nghệ sĩ tài hoa. Tình cảm của nhà thơ dành cho quê hương, làng cảnh, non sông đất nước thấm đẫm trong từng câu chữ, làm xúc động trái tim mỗi người Việt Nam.
Phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến - Tác phẩm đỉnh cao của thơ ca trung đại Việt Nam
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 1
Nguyễn Khuyến, một nhà thơ xuất sắc với phong cách thơ độc đáo, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ “Câu cá mùa thu”, một bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ và đầy cảm xúc.
Mở đầu bài thơ, tác giả khắc họa khung cảnh thiên nhiên quen thuộc của làng quê Việt Nam:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Hình ảnh “ao thu” gợi lên sự gần gũi, thân thuộc với cuộc sống nông thôn. Mùa thu đến, ao nước trở nên lạnh lẽo và trong vắt, phản chiếu vẻ đẹp tinh khôi của thiên nhiên. Trong không gian rộng lớn ấy, chiếc thuyền câu của thi sĩ hiện lên nhỏ bé, “bé tẻo teo”, tạo nên sự tương phản giữa con người và thiên nhiên. Bức tranh mùa thu hiện lên với vẻ đẹp riêng biệt, không thể lẫn với bất kỳ nơi nào khác.
Bức tranh mùa thu tiếp tục được tô điểm bởi những cảnh vật quen thuộc khác:
“Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Làn gió nhẹ khẽ làm gợn sóng trên mặt nước, tạo nên những đợt sóng li ti, mang đến cảm giác thanh bình. Hình ảnh chiếc lá vàng rơi “khẽ đưa vèo” không chỉ gợi lên sự mỏng manh của thiên nhiên mà còn mang đến âm thanh đặc trưng của mùa thu - tiếng lá rơi nhẹ nhàng.
Bầu trời mùa thu hiện lên với vẻ đẹp thanh bình và trong trẻo:
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"
Những đám mây lơ lửng trên bầu trời xanh ngắt tạo nên một không gian dịu mát và yên tĩnh. Con ngõ trúc quanh co, vắng lặng không một bóng người, càng làm tăng thêm sự tĩnh lặng của khung cảnh.
Trong bức tranh thiên nhiên thanh bình ấy, hình ảnh người thi sĩ hiện lên với vẻ ung dung, tự tại:
"Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo"
Người thi sĩ thong dong buông cần câu, tận hưởng sự yên bình của thiên nhiên. Dù không bắt được cá, nhưng tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” lại mang đến một nét vui tươi, sinh động cho bức tranh. Bức tranh mùa thu với những cảnh vật giản dị của làng quê Việt Nam hiện lên vừa đẹp đẽ, vừa gần gũi.
Vần “eo” thường được coi là khó sử dụng, nhưng Nguyễn Khuyến đã khéo léo vận dụng để tạo nên một bài thơ độc đáo và giàu cảm xúc. Dù thời gian trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 2
Mùa thu thường gợi lên trong ta hình ảnh dịu dàng, êm đềm nhưng cũng đượm buồn với nỗi sầu khắc khoải và niềm tha thiết khôn nguôi. Chính vì thế, mùa thu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca, nơi cảnh sắc và tâm tình hòa quyện làm một. Trong nền văn học trung đại Việt Nam, khi nhắc đến mùa thu, không thể không nhớ đến chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến - người được mệnh danh là “ông hoàng mùa thu”. Qua bài thơ “Thu điếu” (Câu cá mùa thu), chúng ta được chiêm ngưỡng bức tranh thu đẹp đẽ và thấm đẫm tâm tư của tác giả, một tâm hồn luôn tràn đầy cảm xúc và biết cách biến mọi thứ thành thơ.
Chỉ với vài nét chấm phá tinh tế, Nguyễn Khuyến đã khắc họa thành công bức tranh “Câu cá mùa thu” với những cảm xúc dạt dào và sâu lắng. Trước hết, đó là tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó sâu nặng với quê hương, đất nước. Đọc “Thu điếu”, ta như được đắm chìm trong không gian thu đặc trưng của vùng nông thôn Bắc Bộ, nơi mọi thứ đều mang vẻ đẹp giản dị mà đầy chất thơ.
Nếu như Đỗ Phủ trong “Thu hứng” đã vẽ nên một mùa thu tiêu điều, xơ xác của miền Bắc Trung Quốc, hay Nguyễn Khuyến trong “Thu vịnh” đã mở ra một không gian thu rộng lớn với tầm nhìn hướng thượng, thì “Thu điếu” lại là sự kết hợp tinh tế giữa những thi liệu cổ điển và tâm hồn nhạy cảm của thi nhân.
Hình ảnh “thu thủy” – làn nước mùa thu, kết hợp với “thu thiên” – bầu trời thu, cùng “thu diệp” – lá thu và “ngư ông” – người câu cá, tạo nên một bức tranh thu đậm chất đồng quê. Trung tâm của bức tranh là chiếc thuyền câu “bé tẻo teo” giữa lòng ao nhỏ. Từ điểm nhìn này, thi nhân bao quát cảnh vật xung quanh và cảm nhận được sự trong veo, lạnh lẽo của mặt nước ao thu.
Mùa thu hiện lên qua những chi tiết nhỏ như sóng nước “gợn tí”, lá vàng “khẽ đưa vèo” trong gió, bầu trời “xanh ngắt”, và con ngõ trúc “quanh co” uốn lượn. Cuối cùng, tầm mắt của thi nhân lại trở về với chiếc thuyền câu khi nghe tiếng cá “đớp động” dưới chân bèo. Khung cảnh ấy đẹp như một bức tranh thủy mặc, nhưng lại rất đỗi thân thuộc, gần gũi với cuộc sống làng quê.
Xuân Diệu từng nhận xét: “Thu điếu là điển hình nhất cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến không chỉ đẹp ở màu sắc, đường nét mà còn gợi lên những thanh âm đặc trưng. Ao thu hiện lên qua hai tính từ “lạnh lẽo” và “trong veo” – một không gian tĩnh lặng, yên bình đến lạ thường. Sự tĩnh lặng và trong trẻo ấy hòa quyện vào nhau, tạo nên một bức tranh thu đầy chất thơ.
Bầu trời thu được Nguyễn Khuyến miêu tả với màu “xanh ngắt” – một màu xanh thuần khiết, không pha tạp. Đây cũng là gam màu chủ đạo trong chùm thơ thu của ông, trở thành nét đặc trưng trong hồn thơ Nguyễn Khuyến. Màu xanh ấy không chỉ là màu sắc của thiên nhiên mà còn là sự phản chiếu tâm hồn thanh cao, trong sáng của thi nhân.
Gió thu không được miêu tả trực tiếp nhưng được gợi lên qua hình ảnh sóng nước “gợn tí” và lá vàng “khẽ đưa vèo”. Đó là cách Nguyễn Khuyến sử dụng bút pháp “vẽ mây nảy trăng” – một nét đặc trưng của thơ ca cổ điển. Không gian thu yên tĩnh được nhấn mạnh qua hình ảnh “ngõ trúc quanh co – vắng teo”, nơi không một bóng người qua lại.
Chỉ trong không gian tĩnh lặng tuyệt đối, con người mới có thể cảm nhận được âm thanh nhỏ nhất – tiếng cá “đớp động”. Sự xuất hiện của âm thanh này càng làm nổi bật sự tĩnh lặng của cảnh vật. Bức tranh thu hiện lên với vẻ đẹp thanh vắng, quạnh hiu, chỉ có thi nhân ngồi câu cá, đắm chìm trong suy tư. Không gian ấy nhỏ bé, tĩnh lặng, nhưng lại chứa đựng biết bao cảm xúc.
Bức tranh thu của Nguyễn Khuyến còn là sự hòa quyện tinh tế giữa các sắc thái của màu xanh: xanh ao, xanh sóng, xanh bèo, xanh bờ, xanh trời và xanh trúc. Điểm nhấn giữa những sắc xanh ấy là màu “lá vàng” – một nét chấm phá nhẹ nhàng nhưng đầy ý nghĩa. Màu vàng của lá không chỉ gợi lên sự tàn phai mà còn là biểu tượng của mùa thu phương Bắc.
Nguyễn Khuyến không tả mà gợi, chỉ với ba từ “khẽ đưa vèo” đã làm sống dậy hình ảnh chiếc lá vàng chao nghiêng trên nền trời xanh. Đó là khoảnh khắc đầy chất thơ, thể hiện cái nhìn tinh tế và tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ. Thi nhân như đang lắng nghe từng chuyển động nhẹ nhàng của thiên nhiên, cảm nhận sự tàn phai trong từng khoảnh khắc.
Bức tranh thu là sự hòa điệu của những đường nét mảnh mai, nhẹ nhàng nhưng vô cùng tinh tế. Từ chiếc thuyền câu “bé tẻo teo” đến mặt nước “trong veo”, từ bầu trời “xanh ngắt” đến ngõ trúc “quanh co”, tất cả đều hòa quyện vào nhau, tạo nên một bức tranh thiên nhiên hài hòa, xinh xắn và đầy chất thơ.
Để làm sống dậy hồn của cảnh, Nguyễn Khuyến đã sử dụng một hệ thống ngôn từ tài hoa, giàu nhạc điệu và biến hóa linh hoạt. Những từ láy như “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo”, “gợn tí”, “vèo”, “xanh ngắt” không chỉ gợi hình mà còn gợi cảm, tạo nên một bức tranh thu sống động và đầy cảm xúc.
Việc sử dụng vần “eo” – một vần được coi là khó trong thơ ca, đã được Nguyễn Khuyến vận dụng một cách tài tình. Vần “eo” không chỉ tạo cảm giác không gian thu hẹp mà còn gợi lên vẻ đẹp xinh xắn, bé nhỏ, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ truyền thống của người Việt. Bức tranh thu tuy đơn sơ, thanh đạm nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp gợi cảm và đầy chất thơ.
Nguyễn Du từng khẳng định: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu”, và bức tranh thu của Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ. Nó chất chứa những nỗi niềm u hoài của tác giả trước thời thế đổi thay. Bài thơ được hình thành từ sự hòa quyện giữa nỗi sầu trong cảnh và nỗi cô đơn trong lòng người.
Với nhan đề “Câu cá mùa thu”, nhưng nhân vật trữ tình lại không thực sự chú tâm vào việc câu cá. “Câu cá” ở đây chỉ là cái cớ để thi nhân đón nhận cảnh thu và gửi gắm tâm sự. Bức tranh thu tĩnh lặng phải chăng là sự phản chiếu của một tâm hồn tĩnh tại? Cái lạnh của mùa thu thấm vào lòng người, hay chính cái lạnh từ tâm hồn thi nhân lan tỏa ra cảnh vật?
Nguyễn Khuyến mang trong mình nỗi buồn u hoài, cô đơn thăm thẳm của một nhà nho lánh đời, thoát tục, nhưng vẫn không nguôi nỗi niềm với dân tộc. Giống như Nguyễn Trãi về ẩn dật ở Côn Sơn, Nguyễn Khuyến nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Khi ông đạt đến đỉnh cao sự nghiệp, cũng là lúc đất nước chìm trong biến động lịch sử.
Chế độ phong kiến thời bấy giờ trở thành gánh nặng lịch sử, không còn khả năng đưa đất nước thoát khỏi ách ngoại xâm. Hệ tư tưởng Nho giáo mà Nguyễn Khuyến từng tôn thờ đã trở nên lỗi thời. Ông ý thức sâu sắc sự bất lực của bản thân, luôn day dứt vì không thể làm gì hơn cho dân tộc.
Điều duy nhất ông có thể làm là từ chối hợp tác với kẻ thù, lui về quê nhà, giữ vững nhân cách và tiết tháo. Dù muốn quên đi những dằn vặt của thời cuộc, nhưng nỗi niềm dân nước vẫn luôn thường trực trong lòng. Hai câu thơ cuối khép lại mạch cảm xúc, gợi lên hình ảnh ngư ông ngồi lặng lẽ, thanh thản giữa cảnh thu.
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Thi nhân chìm đắm trong cảnh thu, đến khi nghe tiếng cá đớp động dưới chân bèo mới giật mình tỉnh lại. Chữ “đâu” trong câu thơ khiến người đọc phân vân: đâu là thực, đâu là hư? Liệu tiếng cá đớp động có thật hay chỉ là sản phẩm của tâm tưởng? Người ngồi câu như hóa đá giữa không gian và thời gian, đi câu mà tâm trí chẳng đặt nơi cần câu.
Mỗi nhà thơ khi làm thơ đều phải thổi hồn mình vào từng con chữ, biến những ký tự khô khan thành những vần thơ đầy cảm xúc. Như A-tô-ni Phơ-răng từng nói: “Đọc một câu thơ hay là gặp gỡ một tâm hồn con người”. Qua “Thu điếu”, ta thấy được tâm hồn Nguyễn Khuyến – một con người gắn bó với thiên nhiên và mang nặng tình yêu quê hương, đất nước.
Chỉ có cái nhìn tinh tế của bậc thầy thơ Nôm mới có thể vẽ nên bức tranh thu đẹp đến vậy. Nỗi buồn trong cảnh không trở nên u uất mà lan tỏa nhẹ nhàng, tạo nên khoảng lặng trong tâm hồn người đọc. Chính nỗi u hoài ấy đã làm nên sức sống lâu bền và giá trị trường tồn cho tác phẩm.
Với “Thu điếu”, Nguyễn Khuyến đã khẳng định vị thế của mình trong nền thơ ca trung đại Việt Nam, đặc biệt trong mảng thơ về mùa thu. Từng câu chữ trong bài thơ đều thấm đẫm tình yêu thiên nhiên và nỗi niềm dân tộc. Nguyễn Khuyến không chỉ là một họa sĩ tài ba, mà còn là một thi sĩ với trái tim đầy cảm xúc.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 3
Nguyễn Khuyến không chỉ là nhà thơ trào phúng mà còn là một thi sĩ trữ tình đậm chất Lão Trang và triết lý Đông phương. Thơ chữ Hán của ông chủ yếu là thơ trữ tình, và trên cả hai phương diện, Nguyễn Khuyến đều để lại dấu ấn sâu sắc. “Thu điếu” nằm trong chùm thơ thu gồm ba bài: “Thu điếu”, “Thu ẩm”, và “Thu vịnh”. Cả ba tác phẩm đều sử dụng bút pháp “thi trung hữu họa” và nghệ thuật “lấy động tả tĩnh” của văn học trung đại, nhưng vẫn mang đậm phong cách riêng của một bậc thầy thơ Nôm đường luật.
Cảnh vật trong bài thơ được miêu tả từ gần đến xa rồi lại quay về gần. Từ điểm nhìn của người ngồi thuyền câu, nhà thơ quan sát mặt ao, bầu trời, ngõ vắng, rồi lại trở về với ao thu. Cách miêu tả này tạo nên một không gian thu sống động và chân thực.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”
Nguyễn Khuyến đã chọn những chi tiết đặc trưng của mùa thu Bắc Bộ: ao thu, gió thu, và trời thu. Ao thu với hai đặc điểm nổi bật là “lạnh lẽo” và “trong veo” – một không gian tĩnh lặng, yên bình. Ao là hình ảnh quen thuộc trong thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện sự gần gũi, thân thuộc với làng quê. Bầu trời thu “xanh ngắt” là biểu tượng đẹp của mùa thu, với màu xanh thuần khiết, không pha tạp.
Những đường nét chuyển động trong bài thơ đều nhẹ nhàng, tinh tế: sóng “hơi gợn tí”, lá “khẽ đưa vèo”, mây “lơ lửng”. Cảnh vật hài hòa, tương xứng: ao nhỏ – thuyền bé, gió nhẹ – sóng gợn, trời xanh – nước trong. Xuân Diệu sau này cũng đã bắt được những nét đặc trưng này trong bài “Đây mùa thu tới”:
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
… Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò.
Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Nguyễn Khuyến rất tinh tế. Các từ láy như “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo”, “hơi gợn tí”, “khẽ đưa vèo” vừa tạo hình, vừa gợi cảm. Việc lựa chọn vần “eo” còn gợi lên cảm giác không gian thu hẹp dần, phù hợp với tâm trạng cô đơn của thi nhân.
Bức tranh thu không chỉ là cảnh vật mà còn hé lộ tâm trạng của nhà thơ. Phải chăng đây là nỗi niềm về thời thế? Thời cuộc thay đổi nhanh chóng, non sông rơi vào tay giặc. Lá vàng “khẽ đưa vèo” như một ẩn dụ cho sự chóng vánh của thời gian. Không gian thu mở ra với mặt nước, tầng mây, và bầu trời, nhưng cũng ẩn chứa những nỗi niềm u uất về thời cuộc.
Hình ảnh “ngõ trúc quanh co khách vắng teo” gợi lên sự cô đơn, lẻ loi. Nguyễn Khuyến từng ví mình như một cành trúc cô độc, lặng lẽ trước thời cuộc hỗn loạn. Đó là tâm sự của một nhà nho lánh đời nhưng vẫn không nguôi nghĩ về đất nước và nhân dân.
Câu thơ cuối với tiếng cá “đớp động” là điểm nhấn duy nhất trong không gian tĩnh lặng. Nguyễn Khuyến không thực sự chú tâm vào việc câu cá, mà dùng nó như một cách để đón nhận cảnh thu và gửi gắm tâm sự. Sự tĩnh lặng của tâm hồn thi nhân được thể hiện qua cách cảm nhận từng chi tiết nhỏ nhất của thiên nhiên.
“Câu cá mùa thu” không chỉ là bức tranh thu đẹp đẽ mà còn thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước và tâm trạng thời thế của Nguyễn Khuyến. Bài thơ là minh chứng cho tài năng thơ Nôm xuất sắc của tác giả, với nghệ thuật gợi tả tinh tế và sâu sắc.
Phân tích Câu cá mùa thu - Mẫu 4
“Thu điếu” nằm trong chùm thơ thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến, gồm ba bài thơ Nôm xuất sắc. Bài thơ khắc họa một mùa thu tĩnh lặng, đẹp đẽ của làng quê Việt Nam xưa, đồng thời thể hiện tình yêu quê hương đất nước sâu nặng cùng nỗi cô đơn, u hoài của một nhà Nho. “Thu điếu” cùng với “Thu ẩm” và “Thu vịnh” được sáng tác sau khi Nguyễn Khuyến từ quan về quê sống ẩn dật (năm 1884).
Hai câu thơ mở đầu: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo – Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” đã mở ra một không gian nghệ thuật đặc trưng của mùa thu đồng quê. Ao thu với làn nước trong vắt, lạnh lẽo, phản chiếu khí thu bao trùm cả không gian. Không còn cái se lạnh đầu thu mà đã là cái lạnh thấm sâu của cuối thu. Trên mặt ao, chiếc thuyền câu “bé tẻo teo” xuất hiện, gợi lên sự cô đơn, lẻ loi. Từ “bé tẻo teo” không chỉ miêu tả kích thước nhỏ bé của thuyền mà còn gợi lên sự hun hút, tĩnh lặng của cảnh vật. Đó là một nét thu đẹp, êm đềm nhưng đượm buồn.
Hai câu thực: “Sóng nước theo làn hơi gợn tí – Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” miêu tả không gian hai chiều với sự hòa hợp của màu sắc và chuyển động. Sóng nước lăn tăn, lá vàng khẽ bay trong gió nhẹ, tạo nên một bức tranh thu sống động. Nguyễn Khuyến sử dụng phép đối tài tình, làm nổi bật nét đẹp của mùa thu qua thị giác và thính giác. Từ “vèo” được dùng rất tinh tế, sau này được thi sĩ Tản Đà ngưỡng mộ và coi là một trong những từ đắt giá nhất trong thơ.
Bức tranh thu tiếp tục được mở rộng qua hai câu luận:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.”
Bầu trời thu xanh ngắt, cao vời vợi, với những tầng mây lơ lửng trôi nhẹ nhàng. Không gian tĩnh lặng, không một bóng người qua lại trên con ngõ trúc quanh co. Từ “vắng teo” gợi lên sự cô đơn, trống vắng, đồng thời thể hiện tình cảm bâng khuâng, man mác của thi nhân. Ngõ trúc trong thơ Nguyễn Khuyến luôn gợi nhớ về quê hương, như trong bài “Nhớ núi Đọi”:
“Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?”
(Nhớ núi Đọi)
Ngõ trúc và tầng mây là những nét thu đẹp, thân thuộc của làng quê Việt Nam. Thi nhân như đang đắm chìm trong cảnh vật, mơ màng và lặng lẽ ngắm nhìn.
Đến hai câu kết, bức tranh thu mới xuất hiện hình ảnh con người:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
“Thu điếu” là mùa thu câu cá, nhưng sáu câu đầu chỉ có cảnh vật: ao thu, thuyền câu, sóng nước, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc. Mãi đến câu kết, hình ảnh người câu cá mới xuất hiện với tư thế nhàn nhã: “tựa gối ôm cần”. Sự chờ đợi “lâu chẳng được” và tiếng cá “đớp động” dưới chân bèo khiến người đọc liên tưởng đến Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị. Tiếng cá đớp động là âm thanh duy nhất trong không gian tĩnh lặng, hòa quyện với tiếng lá thu bay “vèo”, tạo nên một bức tranh thu đầy chất thơ. Người câu cá không chỉ đang câu cá mà còn đang sống trong tâm trạng cô đơn, lặng lẽ buồn, thể hiện một tâm hồn thanh cao, đáng trọng.
Xuân Diệu từng ca ngợi “cái diệu xanh” trong “Thu điếu”. Bức tranh thu với màu xanh của ao, sóng, trời, tre, bèo, và điểm nhấn là màu vàng của chiếc lá thu bay “vèo”. Cảnh đẹp êm đềm, tĩnh lặng nhưng đượm buồn, thể hiện tâm thế an nhàn, thanh cao của thi nhân. Với nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, phép đối tài tình, và âm điệu nhẹ nhàng, “Thu điếu” xứng đáng là một kiệt tác thơ thu, tả cảnh ngụ tình tuyệt bút.
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 5
Trong nền thơ ca dân tộc, có nhiều bài thơ đặc sắc viết về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã để lại chùm thơ ba bài: “Thu vịnh”, “Thu ẩm” và “Thu điếu”. Mỗi bài thơ đều mang vẻ đẹp riêng, thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng. Trong đó, “Thu điếu” được nhà thơ Xuân Diệu đánh giá là “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Bài thơ không chỉ tả cảnh thu đẹp mà còn ngụ tình sâu sắc, thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.
“Thu điếu” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, với ngôn ngữ tinh tế, hình ảnh giàu biểu cảm. Cảnh thu hiện lên qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến, mang vẻ đẹp dịu dàng, thanh bình của làng quê Việt Nam.
Hai câu đầu miêu tả ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao “trong veo” tỏa hơi thu “lạnh lẽo”, gợi lên không khí se lạnh đặc trưng của mùa thu. Trên mặt ao, chiếc thuyền câu “bé tẻo teo” xuất hiện, tạo nên hình ảnh trung tâm của bài thơ. Ao và thuyền câu không chỉ là cảnh vật quen thuộc mà còn là biểu tượng của quê hương. Theo Xuân Diệu, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có nhiều ao nên thuyền câu cũng nhỏ bé tương ứng:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”
Các từ ngữ như “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” không chỉ gợi tả hình ảnh, màu sắc mà còn mang âm hưởng của mùa thu, như tiếng thu vọng về từ quá khứ.
Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực tiếp tục khắc họa cảnh thu với những nét vẽ tinh tế:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.”
Màu “biếc” của sóng hòa quyện với sắc “vàng” của lá, tạo nên bức tranh thu vừa giản dị vừa lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện: “lá vàng” đối với “sóng biếc”, tốc độ “vèo” của lá bay tương ứng với mức độ “tí” của sóng gợn. Nhà thơ Tản Đà từng ca ngợi chữ “vèo” trong thơ Nguyễn Khuyến, coi đó là một trong những từ đắt giá nhất.
Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả, đưa bức tranh thu lên tầm cao mới với bầu trời “xanh ngắt” và những tầng mây “lơ lửng” trôi nhẹ nhàng. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến thường nhắc đến sắc trời thu “xanh ngắt”:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”
(Thu vịnh)
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt.”
(Thu ẩm)
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt.”
(Thu điếu)
“Xanh ngắt” là màu xanh đậm, sâu thẳm. Bầu trời thu không một gợn mây, chỉ một màu xanh ngắt trải dài vô tận. Màu xanh ấy không chỉ gợi ra chiều sâu của không gian mà còn thể hiện cái nhìn xa xăm, đắm chìm của thi nhân – một ông lão đang ngồi câu cá. Khi đưa mắt nhìn quanh làng quê, ông nhận ra sự vắng lặng đến lạ thường. Xóm thôn không một bóng người, chỉ còn những con đường quanh co, hun hút:
“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.”
Cảnh vật hiện lên êm đềm nhưng thoáng chút buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá dường như đang chìm đắm trong giấc mộng mùa thu. Từ mặt nước “ao thu lạnh lẽo” đến “chiếc thuyền câu bé tẻo teo”, từ “sóng biếc” đến “lá vàng”, từ “tầng mây lơ lửng” đến “ngõ trúc quanh co”, tất cả đều hiện lên với những đường nét, màu sắc và âm thanh tinh tế, gần gũi và thân thuộc với mỗi người Việt Nam. Phong cảnh mùa thu quê hương sao mà đáng yêu đến thế!
Cái tinh tế của bài thơ “Thu điếu” nằm ở hai câu kết:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
“Tựa gối ôm cần” là tư thế của người câu cá, cũng là tâm thế nhàn tản của một nhà thơ đã thoát khỏi vòng danh lợi. Âm thanh “cá đâu đớp động”, đặc biệt là từ “đâu”, gợi lên sự mơ hồ, xa vắng và bất chợt tỉnh giấc. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ – một vị quan triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, đã chọn cách cáo quan về quê. Đằng sau câu chữ là hình ảnh một nhà nho thanh cao, chọn cuộc sống ẩn dật. Dù đang ngồi câu cá, tâm hồn ông lại đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, chỉ tỉnh lại khi nghe tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi lòng nhà thơ – một nỗi buồn cô đơn và trống trải.
Tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” làm nổi bật sự tĩnh lặng của ao thu. Cảnh vật dường như luôn gắn bó với tâm trạng con người. Thiên nhiên đối với Nguyễn Khuyến như một người bạn tri kỷ. Ông gửi gắm tâm hồn mình vào thiên nhiên, vào sắc vàng của lá thu, màu xanh ngắt của trời thu, và làn sóng biếc trên mặt ao lạnh lẽo.
“Thu điếu” là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ tinh tế và gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi “vèo” trong gió thu, tiếng cá “đớp động” dưới chân bèo – đó là những thanh âm giản dị, thân thuộc của làng quê, khơi gợi trong lòng người đọc bao hoài niệm đẹp về quê hương.
Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo. Vần “eo” xuất hiện một cách tự nhiên, để lại ấn tượng sâu sắc: “trong veo” – “bé tẻo teo” – “đưa vèo” – “vắng teo” – “chân bèo”. Nhà thơ Xuân Diệu từng nhận xét: “Cái thú vị của bài ‘Thu điếu’ nằm ở các sắc thái của màu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, và điểm nhấn là màu vàng của chiếc lá thu rơi.”
Thơ là sự phản chiếu của tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc làng quê với tất cả tình cảm chân thành. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc “Thu điếu”, “Thu vịnh”, “Thu ẩm”, chúng ta càng thêm yêu mùa thu quê hương, yêu thêm xóm làng, đồng nội và đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu cũng chính là yêu quê hương đất nước. Ông xứng đáng là một trong những nhà thơ kiệt xuất của nền thơ ca cổ điển Việt Nam.
Phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến: Bức tranh thu đẹp và tâm trạng u hoài
Phân tích Thu điếu - Mẫu 1
Mùa thu luôn là đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam, thường gợi lên nỗi buồn man mác, nuối tiếc về những gì xa xôi và đầy bí ẩn. Hầu như không nhà thơ nào bỏ qua cảnh thu, tình thu khi cầm bút. Đến với Nguyễn Khuyến, ta thấy mùa thu trong thơ ông không chung chung mà gắn liền với quê hương ông, vùng đồng chiêm trũng Bắc Bộ. Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), làn nước “trong veo” của ao cá (Thu điếu), và hình ảnh “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm), Nguyễn Khuyến đã làm say đắm bao thế hệ. Xuân Diệu từng nhận xét: “Bài thơ Thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy điều gì khiến “Thu điếu” trở thành điển hình cho mùa thu làng quê Việt Nam?
Nếu như trong “Thu vịnh”, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ không gian rộng lớn, mênh mông, với cái nhìn hướng thượng để khám phá các tầng cao của trời thu: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì trong “Thu điếu”, nhà thơ không tả mùa thu ở một khung cảnh rộng rãi, mà gói gọn trong một ao thu – đặc trưng của vùng đồng chiêm trũng quê hương ông:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Câu thơ đầu với hai vần “eo” tạo cảm giác co lại, đọng lại, gợi sự lạnh lẽo và tĩnh lặng. Từ “lẽo” và “veo” càng nhấn mạnh sự yên tĩnh của cảnh vật. Khung ao tuy nhỏ nhưng được mở rộng qua nhiều chiều, trong không khí se lạnh, làn nước ao cuối thu càng trở nên trong trẻo. Điều bất ngờ là trong khung cảnh tĩnh lặng ấy, lại xuất hiện “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Sự xuất hiện của chiếc thuyền không chỉ làm cảnh thu thêm ấm cúng mà còn gợi lên dấu vết của cuộc sống con người. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật xinh xắn, gần gũi và thân mật. Hai câu thơ đầu với những từ ngữ gợi hình như “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” đã mang đến cho người đọc cảm giác buồn man mác, cảnh vắng vẻ, ít người qua lại. Và rồi hình ảnh:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Càng làm cho không khí thêm tĩnh lặng. Nhà thơ dùng cái động của “lá vàng trước gió” để tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê. Gió thu mang theo cái lạnh, khiến mặt hồ không còn tĩnh lặng nữa mà “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”. Cơn “sóng biếc” nhỏ và chiếc lá “khẽ đưa vèo” tưởng như mâu thuẫn, nhưng thực chất Nguyễn Khuyến đã quan sát rất kỹ chiếc lá bay trong gió, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Chỉ một tâm hồn yêu thiên nhiên sâu sắc mới có thể cảm nhận được những âm thanh tinh tế như vậy. Mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng vần “eo”, nhưng không bị giới hạn mà mở rộng không gian theo chiều cao, tạo sự khoáng đạt:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Bầu trời thu xanh ngắt là biểu tượng đẹp của mùa thu. Những áng mây “lơ lửng” tạo nên vẻ đẹp thanh bình. Trước đây, Nguyễn Du từng viết về mùa thu:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Nguyễn Khuyến cũng vậy. Ông mở ra không gian rộng lớn, nhưng cảm hứng vẫn quay về với khung cảnh làng quê quen thuộc: tre trúc, bầu trời thu, ngõ xóm quanh co… tất cả đều thân thương và mang đậm màu sắc thôn quê Việt Nam. Chỉ với Nguyễn Khuyến, ta mới thấy được những nét quê tĩnh lặng, êm ả đến vậy. Trời sang thu, không khí lạnh giá, đường làng vắng vẻ. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo”, không một bóng người qua lại. Sau này, Xuân Diệu trong bài “Đây mùa thu tới” cũng bắt được những nét điển hình của sông nước vùng quê khi trời chuyển lạnh:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Cành biếc run run chân ý nhi (Thu)
Trong không khí se lạnh của thôn quê, tưởng chừng không có bóng dáng con người, nhưng thật bất ngờ:
Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hai câu thơ kết thúc đã phần nào hé lộ chân dung tác giả. Có tài liệu cho rằng: “tựa gối, ôm cần lâu chẳng được”, với từ “ôm” thay vì “buông”. Tuy nhiên, theo Việt Nam tự điển, từ “buông” phù hợp hơn với tính cách của nhà thơ. Trong những ngày từ quan về quê, Nguyễn Khuyến tìm thú vui trong việc câu cá như một cách để hòa mình vào thiên nhiên, quên đi nỗi lo toan với đất nước. “Buông” thể hiện sự thả lỏng, không vướng bận, phù hợp với tâm thế nhàn tản của nhà thơ. Từ “buông” mang lại hiệu quả nghệ thuật cao hơn, phản ánh đúng tinh thần của bài thơ.
Qua “Thu điếu”, ta thấy được tình yêu thiên nhiên và cuộc sống của Nguyễn Khuyến. Chỉ với những ao nhỏ, ngõ trúc quanh co, màu xanh của bầu trời, nhà thơ đã làm say đắm lòng người. Mùa thu ở thôn quê không xa lạ mà chính là hồn cốt của cuộc sống, là vẻ đẹp giản dị của nông thôn. Câu thơ cuối không chỉ gợi cảm xúc mà còn phản ánh cuộc sống chân chất, với những âm thanh trong trẻo, vang ngân qua cách gieo vần tài tình. Đọc một lần, độc giả khó lòng quên được.
...........
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu phân tích Câu cá mùa thu
- Bộ 8 đề thi học kì 2 môn Toán lớp 4 năm 2023 - 2024 theo chương trình sách mới: Kết nối tri thức, Chân trời sáng tạo, Cánh diều. Bao gồm đáp án chi tiết và bảng ma trận đánh giá, giúp học sinh ôn tập hiệu quả.
- Văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy - Sơ đồ tư duy, 4 dàn ý chi tiết và 25 bài văn mẫu xuất sắc
- Sơ đồ tư duy bài Vợ chồng A Phủ: Khám phá tác phẩm của Tô Hoài qua góc nhìn sáng tạo và chi tiết
- Hướng dẫn viết bài văn thuyết minh về sự kiện hoặc sinh hoạt văn hóa - Dàn ý chi tiết & 15 bài văn mẫu lớp 6
- Công thức tính công suất hao phí trong chương trình Vật lí lớp 9