Kể lại câu chuyện Bàn chân kì diệu - Tuyển tập 5 mẫu kể chuyện sinh động dành cho học sinh lớp 4

Câu chuyện Bàn chân kì diệu mang đến bài học ý nghĩa về tinh thần vượt khó, hiếu học của cậu bé Nguyễn Ngọc Ký. Bài viết này sẽ giúp các em trả lời câu hỏi trong tiết Kể chuyện lớp 4 tuần 11 - SGK Tiếng Việt 4 tập một trang 107, đồng thời nâng cao kỹ năng Tập làm văn lớp 4.
Kể lại từng đoạn câu chuyện Bàn chân kì diệu
Tranh 1: Từ nhỏ, Ký đã bị liệt cả hai cánh tay. Nhìn các bạn cùng trang lứa cắp sách đến trường, lòng Ký trào dâng niềm khao khát được đi học. Em quyết định đến lớp và xin được nhập học.
Tranh 2: Khi biết hoàn cảnh và tình trạng đôi tay của Ký, cô giáo Cương đã không dám nhận em vào lớp.
Tranh 3: Vài ngày sau, cô giáo đến thăm Ký và bất ngờ thấy em đang dùng chân tập viết trong sân. Hình ảnh ấy khiến cô vô cùng xúc động và ngạc nhiên.
Tranh 4: Không nản lòng, Ký tiếp tục đến lớp và lần này, em đã được nhận vào học.
Tranh 5: Cô giáo Cương sắp xếp cho Ký một chiếc chiếu ở cuối lớp để ngồi học. Em dùng ngón chân kẹp bút, kiên trì tập viết trên trang giấy. Những ngày đầu đầy khó khăn: bút không nghe lời, giấy nhàu nát, mực bê bết. Có lúc mỏi cơ, Ký bị chuột rút và suýt nản lòng. Nhưng nhờ sự động viên của cô giáo và bạn bè, Ký lại tiếp tục cố gắng, ngày nắng cũng như ngày mưa đều chuyên cần đến lớp.
Tranh 6: Nhờ sự kiên trì luyện tập, Ký đã thành công. Hết lớp Một, em đã đuổi kịp các bạn. Chữ viết của Ký ngày càng đều và đẹp hơn. Em từng đạt 8 điểm, 9 điểm rồi 10 điểm môn Tập viết. Sau bao năm nỗ lực, Ký thi đỗ đại học và trở thành sinh viên Trường Đại học Tổng hợp.
Nguyễn Ngọc Ký là tấm gương sáng ngời về ý chí vượt khó. Khi Bác Hồ còn sống, Người đã hai lần gửi tặng huy hiệu của mình cho cậu học trò giàu nghị lực này.
Kể chuyện Bàn chân kỳ diệu ngắn gọn
Ký là một cậu bé bị liệt cả hai cánh tay từ nhỏ, nhưng trong lòng em luôn cháy bỏng khát khao được cắp sách đến trường. Khi thấy hoàn cảnh của Ký, cô giáo đã không dám nhận em vào lớp. Về nhà, Ký buồn nhưng không từ bỏ, em kiên trì dùng đôi chân của mình để tập viết. Hành động đầy nghị lực ấy đã khiến cô giáo vô cùng xúc động và quyết định nhận em vào học.
Những ngày đầu, Ký gặp vô vàn khó khăn. Đôi chân em đau nhức vì chuột rút, giấy vở nhàu nát vì những nét chữ chưa thành hình. Đau đớn và mệt mỏi, có lúc Ký muốn buông xuôi. Nhưng nhờ sự động viên của cô giáo và bạn bè, em đã kiên trì vượt qua. Dần dần, chữ viết của Ký ngày càng đẹp, điểm số cũng dần cải thiện, từ 8, 9 đến 10 điểm. Thành tích học tập của em ngày càng xuất sắc. Sau này, Ký thi đỗ Đại học Tổng Hợp và hai lần được Bác Hồ tặng huy hiệu, trở thành biểu tượng sáng ngời về nghị lực và ý chí kiên cường.
Kể chuyện Bàn chân kỳ diệu
Đoạn 1: Từ nhỏ, Ký đã bị liệt cả hai cánh tay. Nhìn các bạn cùng trang lứa cắp sách đến trường, lòng Ký trào dâng niềm khao khát được đi học. Em quyết định đến lớp xin cô giáo cho nhập học. Khi cô cầm tay Ký và thấy đôi tay mềm nhũn, buông thõng, bất động, cô đã không dám nhận em vào lớp. Ký thất vọng trở về, vừa đi vừa khóc.
Đoạn 2: Vài ngày sau, cô giáo đến nhà Ký. Bất ngờ, cô thấy em đang ngồi giữa sân, dùng chân tập viết một cách say sưa. Cảm động trước nghị lực của Ký, cô tặng em vài viên phấn. Một thời gian sau, Ký lại đến lớp. Lần này, cô giáo đã nhận em vào học. Cô sắp xếp cho Ký một góc riêng trong lớp, trải chiếu để em ngồi tập viết. Ký dùng chân kẹp bút, kiên trì luyện viết. Những ngày đầu, bút không nghe lời, giấy nhàu nát, mực bê bết. Đôi chân em đau nhức vì chuột rút, co quắp lại, đau đớn vô cùng. Có lúc Ký ném bút vào góc lớp, chán nản. Nhưng nhờ sự động viên của cô giáo và bạn bè, em lại tiếp tục kiên nhẫn tập luyện.
Đoạn 3: Sau một thời gian nỗ lực, Ký đã thành công. Hết lớp Một, em đã đuổi kịp các bạn. Chữ viết của Ký ngày càng đẹp hơn. Sau bao năm khổ luyện, Ký tốt nghiệp phổ thông và thi đỗ vào Trường Đại học Tổng hợp.
Nguyễn Ngọc Ký là tấm gương sáng ngời về ý chí vượt khó. Khi Bác Hồ còn sống, Người đã hai lần gửi tặng huy hiệu của mình cho cậu học trò giàu nghị lực này.
Kể lại toàn bộ câu chuyện Bàn chân kì diệu
Ký bị liệt hai cánh tay từ nhỏ. Nhìn các bạn cùng trang lứa cắp sách đến trường, lòng Ký trào dâng niềm khao khát được đi học. Em quyết định đến lớp xin vào học.
Sáng hôm ấy, cô giáo Cương đang chuẩn bị viết bài học vần lên bảng thì thấy một cậu bé thập thò ngoài cửa. Cô bước ra, dịu dàng hỏi:
- Em muốn hỏi gì cô phải không?
Cậu bé khẽ nói:
- Thưa cô, em xin cô cho em vào học. Có được không ạ?
Cô giáo cầm tay Ký. Hai cánh tay em mềm nhũn, buông thõng, bất động. Cô giáo lắc đầu: Khó lắm em ạ. Em hãy về nhà. Đợi lớn lên ít nữa xem sao đã.
Cô thoáng thấy đôi mắt Ký nhòe ướt. Em quay ngoắt lại, chạy về nhà. Hình như em vừa chạy, vừa khóc.
Cô giáo trở vào lớp. Suốt buổi học hôm ấy, hình ảnh cậu bé với hai cánh tay buông thõng luôn hiện lên trước mắt cô.
Mấy hôm sau, cô giáo đến nhà Ký. Bước qua cổng, cô vừa ngạc nhiên, vừa xúc động: Ký đang ngồi giữa sân hí hoáy tập viết. Cậu cặp một mẩu gạch vào ngón chân và vẽ xuống đất những nét chữ ngoằn ngoèo. Cô giáo hỏi thăm sức khỏe của Ký rồi cho em mấy viên phấn.
Thế rồi, Ký lại đến lớp. Lần này em được nhận vào học. Cô giáo dọn một chỗ ở góc lớp, trải chiếu cho Ký ngồi tập viết ở đó. Em cặp cây bút vào ngón chân và tập viết vào trang giấy. Cây bút không làm theo ý muốn của Ký. Bàn chân em giẫm lên trang giấy, cựa quậy một lúc là giấy nhàu nát, mực giây bê bết. Mấy ngón chân Ký mỏi nhừ. Cô giáo thay bút chì cho Ký. Ký lại kiên nhẫn viết. Mấy ngón chân quắp lại giữ cho được cây bút đã khó, điều khiển cho nó viết thành chữ còn khó hơn, nhưng Ký vẫn gắng sức đưa bút theo nét chữ. Bỗng cậu nằm ngửa ra, chân giơ lên, mặt nhăn nhó, miệng xuýt xoa đau đớn. Cô giáo và mấy bạn chạy vội tới. Thì ra, bàn chân Ký bị chuột rút, co quắp lại, không duỗi ra được. Các bạn phải xoa bóp mãi mới ổn. Cái giống “chuột rút” làm khổ Ký rất nhiều. Nó đã rút một lần thì sau quen cứ rút mãi. Có lần đau tái người, Ký quăng bút vào góc lớp định thôi học. Nhưng cô giáo Cương an ủi, khuyến khích em hãy kiên nhẫn tập dần từng tí một. Các bạn cũng mỗi người nói một câu, giúp một việc. Lời khuyến khích dịu dàng của cô giáo, những cử chỉ thân thương của bè bạn tiếp sức cho Ký. Ký lại quắp bút vào ngón chân hì hục tập viết. Ký kiên nhẫn, bền bỉ. Ngày nắng cũng như ngày mưa, người mệt mỏi, ngón chân đau nhức, có lúc chân bị chuột rút liên hồi... nhưng Ký không nản lòng. Buổi học nào cũng vậy, trong góc lớp, trên mảnh chiếu nhỏ không bao giờ vắng mặt Nguyễn Ngọc Ký.
Nhờ luyện tập kiên trì, Ký đã thành công. Hết lớp Một, Ký đã đuổi kịp các bạn. Chữ Ký viết ngày một đều hơn, đẹp hơn. Có lần Ký được 8 điểm, 9 điểm rồi 10 điểm về môn Tập viết. Bao năm khổ công, thế rồi Ký thi đại học, trở thành sinh viên Trường Đại học Tổng hợp.
Nguyễn Ngọc Ký là tấm gương sáng về ý chí vượt khó. Ngay Bác Hồ còn sống, đã hai lần Bác gửi tặng huy hiệu của Người cho cậu học trò dũng cảm giàu nghị lực ấy.
Hiện nay, ông Nguyễn Ngọc Ký là Nhà giáo Ưu tú, dạy môn Ngữ văn tại một trường trung học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ông cũng là tác giả của bài thơ Em thương trong sách Tiếng Việt 3, tập hai.
Kể lại câu chuyện Bàn chân kì diệu theo lời kể của Ký
Tôi bị liệt hai cánh tay từ nhỏ. Nhìn các bạn cùng trang lứa cắp sách đến trường, lòng tôi trào dâng niềm khao khát được đi học. Cuối cùng, tôi quyết định đến lớp xin vào học.
Sáng hôm ấy, cô giáo Cương đang chuẩn bị viết bài học vần lên bảng thì thấy tôi thập thò ngoài cửa. Cô bước ra, dịu dàng hỏi:
- Em muốn hỏi gì cô phải không?
Tôi rụt rè khẽ nói:
- Thưa cô, em xin cô cho em vào học, có được không ạ?
Cô giáo cầm tay tôi, hai cánh tay mềm nhũn, buông thõng, bất động. Cô giáo lắc đầu:
- Khó lắm em ạ, hãy về nhà, đợi lớn lên ít nữa xem sao.
Cô thoáng thấy đôi mắt tôi nhòe ướt. Tôi quay ngoắt lại, chạy về nhà, vừa chạy vừa khóc.
Mấy hôm sau, cô giáo đến nhà tôi. Chắc hẳn cô vừa ngạc nhiên, vừa xúc động khi thấy tôi đang ngồi giữa sân, hí hoáy tập viết bằng cách cặp một mảnh gạch vào ngón chân và vẽ xuống đất những nét chữ ngoằn ngoèo. Cô giáo hỏi thăm sức khỏe của tôi rồi cho tôi mấy viên phấn.
Sau lần ấy, tôi được nhận vào học. Cô giáo dọn một chỗ ở góc lớp, trải chiếu cho tôi ngồi tập viết ở đó. Tôi cặp cây bút vào ngón chân và tập viết lên trang giấy. Cây bút không làm theo ý muốn, bàn chân giẫm trên trang giấy, cựa quậy một lúc là giấy nhàu nát, mực giây bê bết. Mấy ngón chân tôi mỏi nhừ. Cô giáo thay bút chì, tôi lại kiên nhẫn viết. Mấy ngón chân quắp lại giữ cho được cây bút đã khó, điều khiển cho nó viết thành chữ còn khó hơn, nhưng tôi vẫn gắng sức đưa bút theo nét chữ. Bỗng tôi nằm ngửa ra, chân giơ lên, mặt nhăn nhó, miệng xuýt xoa đau đớn. Cô giáo và mấy bạn chạy vội tới. Thì ra, bàn chân tôi bị chuột rút, co quắp lại, không duỗi ra được. Các bạn phải xoa bóp mãi mới ổn. Cái bệnh “chuột rút” làm khổ tôi rất nhiều. Nó đã rút một lần thì sau quen cứ rút mãi. Có lần đau tái người, tôi quẳng bút vào góc lớp định thôi học.
Nhưng cô giáo Cương an ủi, khuyên nhủ tôi hãy kiên nhẫn tập dần từng tí một. Các bạn cũng mỗi người nói một câu, giúp một việc. Lời khuyến khích dịu dàng của cô giáo, những cử chỉ thân thương của bè bạn tiếp sức cho tôi. Tôi lại quắp bút vào ngón chân, hì hục tập viết.
Tôi kiên nhẫn, bền bỉ tập viết. Ngày nắng cũng như ngày mưa, người mệt mỏi, ngón chân đau nhức, có lúc chân bị chuột rút liên hồi... nhưng tôi không nản lòng. Buổi học nào cũng vậy, trong góc lớp, trên mảnh chiếu nhỏ, tôi không bao giờ vắng mặt.
Nhờ luyện tập kiên trì, tôi đã thành công. Hết lớp Một, tôi đã đuổi kịp các bạn. Chữ tôi viết ngày một đều hơn, đẹp hơn. Nhiều lần tôi được cô cho 8 điểm, 9 điểm rồi 10 điểm về môn Tập viết. Bao năm khổ công, thế rồi tôi học hết phổ thông, thi vào đại học và trở thành sinh viên khoa Văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Sinh thời, Bác Hồ đã hai lần gửi tặng Huy hiệu cao quý của Bác cho tôi. Bác âu yếm gọi tôi là cậu học trò dũng cảm, giàu nghị lực.
Tôi càng thấm thía lời dạy của ông cha: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”.
- Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh kèm sơ đồ tư duy chi tiết - 4 dàn ý và 24 bài phân tích đặc sắc
- Tập làm văn lớp 4: Kể chuyện về những ước mơ đẹp (4 mẫu) - Bài học Tuần 8
- Viết đoạn văn miêu tả đặc điểm bên ngoài chiếc cặp (9 mẫu) - Miêu tả chi tiết đặc điểm ngoại hình chiếc cặp sách dành cho học sinh lớp 4
- Tập Làm Văn Lớp 4: Kể Câu Chuyện Về Tấm Gương Rèn Luyện Thân Thể (Kèm Dàn Ý Chi Tiết Và 4 Bài Văn Mẫu)
- Tập làm văn lớp 4: Kể lại câu chuyện cảm động về những con người giàu nghị lực (6 bài mẫu) - Kể chuyện đã nghe, đã đọc