Đóng vai Lang Liêu kể lại truyện Bánh chưng bánh giầy: Dàn ý chi tiết và 6 bài văn mẫu hay nhất dành cho học sinh lớp 6

Tham khảo ngay để khám phá cách kể lại câu chuyện Bánh chưng bánh giầy qua lời kể của Lang Liêu một cách hấp dẫn và giàu cảm xúc.
Đóng vai Lang Liêu kể lại Bánh chưng bánh giầy - Mẫu 1
Ta là Lang Liêu, con trai thứ của vua Hùng Vương đời thứ sáu. Khi lễ Tiên vương đến gần, vua cha truyền lệnh: “Không cần là con trưởng, chỉ cần dâng lễ vật hợp ý ta trong ngày lễ này sẽ được truyền ngôi.” Các anh em ta liền sai người đi khắp nơi tìm kiếm sơn hào hải vị để làm lễ vật.
Riêng ta, lòng đầy băn khoăn, chẳng biết nên chọn lễ vật gì. Một đêm nọ, ta nằm mộng thấy thần hiện ra bảo rằng hãy dùng gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, bọc lá xanh bên ngoài, đặt nhân thơm ngon bên trong. Tỉnh dậy, ta liền chọn gạo nếp thơm ngon, trắng tinh, hạt mẩy đều, vo sạch sẽ, kết hợp với đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong gói thành hình vuông, nấu chín kỹ suốt một ngày một đêm. Để thêm phong phú, ta cũng đồ gạo nếp, giã nhuyễn, nặn thành bánh hình tròn.
Đến ngày lễ Tiên vương, các anh em ta mang đủ loại cao lương mỹ vị đến dâng. Vua cha và quần thần tiến lại gần xem mâm bánh của ta. Ngài tỏ ra vô cùng ngạc nhiên. Ta liền kể lại giấc mộng gặp thần, giải thích cách làm và ý nghĩa sâu xa của từng loại bánh. Nghe xong, vua cha gật đầu hài lòng, quyết định chọn bánh của ta để dâng lên tế thần.
Sau đó, vua cha triệu tập mọi người và tuyên bố:
“Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, với nhân thịt mỡ, đậu xanh và lá dong tượng trưng cho muôn loài cầm thú, cỏ cây. Lá bọc bên ngoài thể hiện sự đùm bọc, đoàn kết. Lang Liêu đã dâng lễ vật rất hợp ý ta, nên sẽ là người kế vị ngôi báu.”
Từ đó, dân ta chú trọng nghề trồng trọt. Hàng năm, cứ đến dịp Tết, mọi nhà đều làm bánh chưng, bánh giầy để dâng cúng trời đất, tổ tiên.
Đóng vai Lang Liêu kể lại Bánh chưng bánh giầy - Mẫu 2
Ta là Lang Liêu, con trai thứ mười tám của Vua Hùng. Dù là hoàng tử, ta không được sống trong nhung lụa như các anh em khác. Mẹ mất sớm, ta sống một mình với ruộng vườn, lấy niềm vui từ việc trồng lúa, trồng khoai. Tuy vậy, chính sự cần cù và tình yêu với đồng ruộng đã mang đến cho ta hạnh phúc lớn nhất: được vua cha truyền ngôi trong lễ Tiên Vương.
Chuyện xảy ra như sau:
Một ngày, vua cha triệu tập tất cả các con trai vào triều. Ngài nói rằng tuổi đã cao, sức khỏe không còn như xưa, nên việc truyền ngôi là cần thiết. Ngài muốn chọn một người con xứng đáng để kế vị.
Vua cha phán rằng:
“Đến ngày lễ Tiên Vương, ai làm vừa lòng ta, người đó sẽ được truyền ngôi để tiếp nối sự nghiệp của tổ tiên.”
Các hoàng tử anh em ta, mặt mày hớn hở, quần áo lộng lẫy, nhanh chóng rời triều đình. Riêng ta, với bộ quần áo bạc màu vì mưa nắng, trở về nhà trong nỗi buồn và sự bối rối. Trong tay ta chỉ có cái cày, mảnh ruộng và những thứ tầm thường của nhà nông. Ta nhìn những vựa lúa vàng óng, những củ hành, miếng thịt heo treo trên bếp mà lòng đầy chán nản. Ta không dám mơ đến ngôi báu, chỉ sợ phụ lòng vua cha và các đấng Tiên vương.
Trong khi các anh em lên rừng xuống biển tìm của ngon vật lạ, ta trằn trọc suốt đêm. Một đêm nọ, ta mơ thấy thần hiện ra bảo rằng hãy dùng chính những sản phẩm mình làm ra để làm bánh. Thần chỉ ta làm hai loại bánh: một loại hình vuông, một loại hình tròn, bên ngoài là gạo nếp, bên trong là thịt mỡ, đậu xanh, và lá dong.
Đến ngày lễ, giữa khói nhang thơm ngát, trên bàn thờ Tiên vương là vô số sơn hào hải vị. Những món ngon vật lạ được dâng lên, toàn là những thứ quý hiếm chỉ dành cho vua chúa.
Vua cha nếm từng món với vẻ bình thản, nhưng khi đến mâm bánh của ta, ngài cầm từng chiếc bánh lên, suy nghĩ rất lâu. Rồi ngài gọi các quần thần lại, chia cho mỗi người một miếng. Ai nấy đều tấm tắc khen ngon. Vua cha nói:
“Lang Liêu quả là người con hiếu thảo. Bánh tròn tượng trưng cho Trời, bánh vuông tượng trưng cho Đất. Thịt mỡ, đậu xanh, lá dong và gạo nếp đều là sản phẩm của Trời Đất. Lá dong bọc ngoài thể hiện sự đùm bọc, chắc nó nghĩ đến bọc trứng kỳ diệu mà tổ tiên ta đã sinh ra. Lang Liêu xứng đáng được ta chọn để làm vừa lòng các Tiên vương. Ta đặt tên hai loại bánh này là bánh chưng và bánh giầy!”
Ta kể lại câu chuyện này cho các cháu nghe. Đứa cháu đích tôn nói với những đứa khác:
“Các em hãy noi gương ông nội. Ông lên ngôi không phải vì xuất thân giàu sang mà nhờ sự chăm chỉ và lòng hiếu thảo với vua cha và Tiên vương. Chúng ta phải học theo ông, không được ỷ lại vào thân phận mà quên đi đạo đức và lao động.”
“Vậy từ đó, Tết nào dân ta cũng làm bánh chưng bánh giầy phải không ông?” – Một cháu hỏi.
“Đúng vậy, từ lễ Tiên vương năm ấy, vua cha đã truyền lại tục lệ làm bánh chưng bánh giầy trong dân gian.” – Ta nghiêm trang trả lời.
Đóng vai Lang Liêu kể lại Bánh chưng bánh giầy - Mẫu 3
Ta tên là Liêu, con trai của vua Hùng. Khác với các anh em, ta không sống trong nhung lụa mà quanh năm bận rộn với ruộng đồng, trồng ngô khoai, cấy lúa. Trong nhà ta, lúa gạo là thứ dồi dào nhất.
Một ngày nọ, vua cha gọi tất cả chúng ta lại và phán rằng:
“Cha biết mình đã già, gần đất xa trời. Cha muốn truyền ngôi cho một người trong số các con. Hãy làm cỗ dâng lên tổ tiên. Ai làm được món ăn quý, vừa ý cha, người đó sẽ được chọn.”
Nghe lời vua cha, các hoàng tử anh em ta liền sai người đi khắp nơi tìm kiếm sơn hào hải vị, nem công chả phượng, mong được kế vị. Riêng ta, không có điều kiện như họ, cũng không muốn làm thế. Ta nghĩ, món ăn dâng lên tổ tiên phải do chính tay mình làm ra. Ta băn khoăn, lo lắng suốt nhiều ngày. Nhà ta có nhiều lúa gạo, đậu đỗ, ngô khoai, nhưng những thứ ấy quá tầm thường, biết làm sao đây? Một đêm, ta mơ thấy thần tiên hiện lên mách bảo: “Hãy lấy gạo làm bánh mà tế lễ.” Càng ngẫm, ta càng thấy lời thần đúng. Của ngon vật lạ ăn mãi cũng chán, còn lúa gạo thì dùng được mãi. Ta liền chọn thứ gạo nếp trắng ngon nhất, ngâm kỹ, làm bánh hình vuông gói trong lá dong, nhân bánh bằng thịt lợn và đậu xanh. Ta còn làm thêm bánh hình tròn bằng cách giã mịn cơm nếp đã đồ chín. Những chiếc bánh thơm ngon ấy được ta dâng lên cúng Tiên vương.
Ngày lễ Tiên vương, các anh em ta dâng lên vô số của ngon vật lạ, nhưng vua cha chỉ lướt qua. Khi đến mâm cúng của ta, ngài dừng lại rất lâu. Ta kể lại lời thần mách bảo. Sau khi cùng quần thần nếm thử, vua cha rất hài lòng và phán rằng: bánh hình vuông tượng trưng cho đất, có cây cỏ muông thú, đặt tên là bánh chưng; bánh hình tròn tượng trưng cho trời, đặt tên là bánh giầy.
Vua cha trang trọng tuyên bố ta được giải nhất và sẽ truyền ngôi. Ta vô cùng sung sướng và cảm động. Từ đó, ta luôn chăm lo việc trồng trọt, chăn nuôi để nhân dân được no ấm.
Đóng vai Lang Liêu kể lại Bánh chưng bánh giầy - Mẫu 4
Mỗi dịp Tết đến xuân về, trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh mâm ngũ quả, cành đào, cành mai, bánh chưng bánh giầy cũng được bày lên một cách trang trọng. Gia đình tôi dù bận rộn đến đâu cũng không bao giờ thay đổi truyền thống ấy.
Năm ngoái, vào đêm ba mươi Tết, tôi cùng gia đình thức bên nồi bánh chưng chờ đón giao thừa. Đêm càng khuya, không gian chìm vào tĩnh lặng, chỉ còn tiếng nồi bánh sôi đều đều và tiếng củi cháy lép bép. Tôi ngồi nhìn ngọn lửa hồng, dần chìm vào giấc ngủ, thả hồn theo những đốm lửa bay lên như sao trời.
Bỗng nhiên, tôi nghe thấy tiếng nói dõng dạc của Vua Hùng:
“Cha biết mình đã già, gần đất xa trời. Cha muốn truyền ngôi cho một người trong số các con. Hãy làm cỗ dâng lên tổ tiên. Ai làm được món ăn quý, vừa ý cha, người đó sẽ được chọn.”
Nghe lời vua cha, các hoàng tử khác liền sai người đi khắp nơi tìm kiếm sơn hào hải vị, nem công chả phượng, mong được kế vị. Họ không biết rằng thứ quý giá nhất lại chính là hạt gạo, thứ nuôi sống họ hàng ngày. Riêng tôi, đang loay hoay không biết làm món gì để dâng lên tổ tiên vì trong nhà chỉ có lúa, gạo, khoai, sắn. May mắn thay, thần tiên hiện ra mách bảo:
“Hãy lấy gạo làm bánh mà tế lễ.” Tôi nhận ra lời thần thật đúng. Ai cũng có thể làm ra lúa gạo nếu chăm chỉ, cần cù. Của ngon vật lạ ăn mãi cũng chán, còn lúa gạo thì dùng được mãi. Vua Hùng là người yêu nước thương dân, hiểu sâu sắc giá trị của hạt gạo. Bánh hình vuông tượng trưng cho đất, có cây cỏ muông thú; bánh hình tròn tượng trưng cho trời. Đó là bánh chưng và bánh giầy, thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu với tổ tiên. Vua Hùng trân trọng tuyên bố Lang Liêu được giải nhất và sẽ truyền ngôi. Tôi định tạ ơn vua cha thì bỗng nghe tiếng gọi:
“Thêm nước vào nồi bánh đi, kẻo cạn hết rồi!”
Tôi giật mình tỉnh dậy, hóa ra chỉ là một giấc mơ thú vị. Đúng vậy, người kế vị phải nối chí vua, và Lang Liêu lên ngôi là hoàn toàn xứng đáng. Những nguyên liệu như thịt, đậu, gạo trắng không chỉ tươi ngon mà còn tượng trưng cho sự phồn thịnh của đất nước, luôn tràn đầy sức sống như vườn cây xanh tốt. Cũng nhờ hạt gạo quý giá mà dân ta chăm chỉ trồng trọt, cày sâu cuốc bẫm, lúa gạo ngày càng phát triển, thơm dẻo hơn. Tôi nhận ra rằng một ông vua tốt phải luôn vì dân vì nước, coi nước là nhà, coi dân là con, như Vua Hùng và Lang Liêu.
Giờ đây, mỗi khi ngồi bên bếp lửa, thưởng thức hương vị thơm ngon của bánh chưng bánh giầy, tôi lại nhớ đến câu chuyện “Sự tích bánh chưng bánh giầy”. Tôi vô cùng kính trọng những người nông dân một nắng hai sương, làm ra hạt gạo nuôi sống con người.
Đóng vai Lang Liêu kể lại Bánh chưng bánh giầy - Mẫu 5
Ta là Lang Liêu, con trai của vua Hùng Vương. Hẳn các bạn còn nhớ ta và hai loại bánh kỳ diệu: bánh chưng và bánh giầy, phải không? Các bạn có biết vì sao ta lại làm ra được hai loại bánh ấy không? Đó là cả một câu chuyện dài.
Sau khi dẹp yên giặc giã, nhân dân được sống trong cảnh ấm no, vua cha ta tuổi đã cao, sức đã yếu. Ngài muốn truyền ngôi lại cho con, nhưng trong số hai mươi người con trai, ngài không biết nên chọn ai. Cuối cùng, vua cha đã nghĩ ra một cách lựa chọn vô cùng sáng suốt: nhân lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý ngài sẽ được truyền ngôi, không phân biệt con trưởng hay con thứ.
Ta vừa mừng vừa lo trước quyết định của vua cha. Các anh em ta ai cũng muốn ngôi báu về mình, nên họ thi nhau làm cỗ thật hậu, thật ngon để dâng lên Tiên Vương. Riêng ta, là con thứ mười tám, mẹ ta từng bị vua cha ghẻ lạnh, buồn phiền mà qua đời sớm. Từ nhỏ, ta sống một mình, không biết gì về sự sang trọng trong cung điện, chỉ quen với việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai. Giờ đây, ta chẳng biết lấy gì để làm cỗ.
Một đêm nọ, ta nằm mơ thấy một vị thần hiện ra và bảo:
“Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người và ăn mãi không chán. Hãy lấy gạo làm bánh mà dâng lên Tiên Vương.”
Tỉnh dậy, ta vô cùng mừng rỡ, ngồi suy ngẫm lời thần mách bảo. Càng nghĩ, ta càng thấy lời ấy thật đúng đắn và sâu sắc. Ta chọn gạo nếp trắng tinh, thơm lừng, kết hợp với đậu xanh và thịt lợn làm nhân, dùng lá dong gói lại thành hình vuông, nấu chín kỹ suốt một ngày một đêm. Ta cũng làm thêm một loại bánh khác từ gạo nếp, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn. Nhưng ta vẫn băn khoăn chưa biết đặt tên cho hai loại bánh này là gì.
Đến ngày lễ Tiên Vương, ta mang bánh đến với tâm trạng hồi hộp. Các anh em ta ai cũng dâng lên đủ loại sơn hào hải vị, nem công chả phượng. Riêng mâm cỗ của ta lại rất giản dị. Thế nhưng, các bạn biết không, chính mâm cỗ ấy lại được vua cha ưng ý nhất và được chọn để tế Trời, Đất cùng Tiên Vương.
Tất cả mọi người và các quan cận thần đều tấm tắc khen bánh ngon. Vua cha còn đặt tên cho hai loại bánh với ý nghĩa sâu xa. Ngài giải thích:
“Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ta đặt tên là bánh chưng.”
Ta được vua cha truyền ngôi với mong muốn tiếp nối sự nghiệp xứng đáng. Ghi nhớ lời dạy của thần và tâm nguyện của vua cha, ta đã chăm lo phát triển nghề trồng trọt và chăn nuôi, để muôn dân được sống trong no ấm.
Các bạn nhỏ và mọi người hãy nhớ làm bánh chưng, bánh giầy vào mỗi dịp Tết đến xuân về nhé. Hãy biết trân trọng và nâng niu hạt gạo, bởi đó là hạt ngọc của đất trời.
Đóng vai Lang Liêu kể lại Bánh chưng bánh giầy - Mẫu 6
Ta là Lang Liêu, con trai thứ mười tám của vua Hùng. Gia đình ta vốn nghèo khó, mẹ mất sớm nên ta phải tự lực cánh sinh, sống một mình với ruộng vườn, trồng lúa, trồng khoai để nuôi thân. So với các hoàng tử khác, ta ít được vua cha nuông chiều, nhưng nhờ sự siêng năng, cần cù mà ta luôn gặp may mắn và hạnh phúc trong cuộc đời.
Một hôm, vua cha gọi tất cả các con vào triều, báo rằng ngài muốn truyền ngôi. Riêng ta, với bộ quần áo bạc màu vì mưa nắng, trở về nhà trong nỗi buồn và sự bối rối. Trong tay ta chỉ có cái cày, mảnh ruộng và những thứ tầm thường của nhà nông. Ta nhìn những vựa lúa vàng óng, những củ hành và miếng thịt heo treo trên bếp mà lòng đầy chán nản. Ta không dám mơ đến ngôi báu, chỉ sợ phụ lòng vua cha và các đấng Tiên Vương mà ta kính quý.
Trong khi các anh em lên rừng xuống biển tìm của ngon vật lạ, ta trằn trọc suốt đêm. Một đêm nọ, ta mơ thấy thần hiện ra mách bảo: “Hãy dùng chính những sản phẩm mình làm ra để làm bánh.” Thần chỉ ta làm hai loại bánh: một loại hình vuông, một loại hình tròn, bên ngoài là gạo nếp, bên trong là thịt mỡ, đậu xanh và lá dong.
Đến ngày lễ, giữa khói nhang thơm ngát, trên bàn thờ Tiên Vương là vô số sơn hào hải vị, nem công chả phượng. Những món ngon vật lạ được dâng lên, toàn là những thứ quý hiếm chỉ dành cho vua chúa.
Vua cha nếm từng món với vẻ bình thản, nhưng khi đến mâm bánh của ta, ngài cầm từng chiếc bánh lên, suy nghĩ rất lâu. Rồi ngài gọi các quần thần lại, chia cho mỗi người một miếng. Ai nấy đều tấm tắc khen ngon. Vua cha nói:
“Lang Liêu quả là người con hiếu thảo. Bánh tròn tượng trưng cho Trời, bánh vuông tượng trưng cho Đất. Thịt mỡ, đậu xanh, lá dong và gạo nếp đều là sản phẩm của Trời Đất. Lá dong bọc ngoài thể hiện sự đùm bọc, chắc nó nghĩ đến bọc trứng kỳ diệu mà tổ tiên ta đã sinh ra. Lang Liêu xứng đáng được ta chọn để làm vừa lòng các Tiên Vương. Ta đặt tên hai loại bánh này là bánh chưng và bánh giầy!”
Ta kể lại câu chuyện này cho các cháu nghe. Đứa cháu đích tôn nói với những đứa khác:
“Các em hãy noi gương ông nội. Ông lên ngôi không phải vì xuất thân giàu sang mà nhờ sự chăm chỉ và lòng hiếu thảo với vua cha và Tiên Vương. Chúng ta phải học theo ông, không được ỷ lại vào thân phận mà quên đi đạo đức và lao động.”
“Vậy từ đó, Tết nào dân ta cũng làm bánh chưng bánh giầy phải không ông?” – Một cháu hỏi.
“Đúng vậy, từ lễ Tiên Vương năm ấy, ta đã truyền lại tục lệ làm bánh chưng bánh giầy trong dân gian.” – Ta nghiêm trang trả lời.
- KHTN 8 Bài 12: Muối - Hướng Dẫn Giải Chi Tiết Trang 62 Đến 67 Sách Cánh Diều
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 47 - Chân trời sáng tạo 6: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 6 tập 2
- Văn Mẫu Lớp 10: Nghị Luận Về Sức Mạnh Ý Chí Con Người Qua Đoạn Trích Hê-ra-clét Đi Tìm Táo Vàng Và Chiến Thắng Mtao Mxây - Dàn Ý & 3 Bài Văn Hay
- Ôn tập giữa kì 2 Tiết 5 môn Tiếng Việt lớp 4 trong sách Chân trời sáng tạo Tập 2 trang 76
- Ôn tập giữa kỳ 2 Tiết 6, 7 môn Tiếng Việt lớp 4 - Sách Chân trời sáng tạo Tập 2 (trang 76, 77, 78)