Đoạn văn bộc lộ cảm xúc sâu sắc về các bài thơ Mẹ, Ông đồ, Tiếng gà trưa - Dàn ý chi tiết và 9 đoạn văn mẫu lớp 7
Nhằm hỗ trợ học sinh nâng cao kỹ năng viết văn, EduTOPS mang đến tài liệu Bài văn mẫu lớp 7: Đoạn văn bộc lộ cảm xúc về các bài thơ Mẹ, Ông đồ, Tiếng gà trưa.

Tài liệu bao gồm dàn ý chi tiết và 9 đoạn văn mẫu lớp 7, giúp học sinh tham khảo và phát triển ý tưởng cho bài viết của mình.
Dàn ý đoạn văn bộc lộ cảm xúc sau khi đọc xong bài thơ
- Mở đoạn: Giới thiệu yếu tố nội dung hoặc nghệ thuật nổi bật trong dòng thơ, khổ thơ, hoặc toàn bộ bài thơ.
- Thân đoạn: Diễn tả chi tiết cảm xúc của em về yếu tố nội dung hoặc nghệ thuật đặc sắc đã nêu ở phần mở đoạn.
- Kết đoạn: Tổng hợp lại suy nghĩ của bản thân về yếu tố đã khơi gợi cảm xúc đó.
Đoạn văn bộc lộ cảm xúc sâu sắc sau khi đọc bài thơ Mẹ
Đoạn văn mẫu số 1
Khi đọc “Mẹ” của Đỗ Trung Lai, em cảm nhận sâu sắc tình mẫu tử thiêng liêng. Bài thơ là lời tâm tình của người con dành cho mẹ, với những hình ảnh so sánh đầy ám ảnh. Tác giả đặt mẹ trong sự tương phản với “cau”: “Lưng mẹ còng rồi - Cau thì vẫn thẳng”, “Cau - ngọn xanh rờn, Mẹ - đầu bạc trắng”, “Cau gần với trời - Mẹ thì gần đất”. Những câu thơ này khắc họa sự già đi của mẹ theo thời gian. Hình ảnh “Một miếng cau khô - Khô gầy như mẹ” khiến lòng người đọc quặn thắt, xót xa. Người con nâng niu miếng cau “Con nâng trên tay - Không cầm được lệ”, thể hiện sự xúc động nghẹn ngào. Câu hỏi tu từ cuối bài “Ngẩng hỏi giời vậy - Sao mẹ ta già” như một lời than không lời đáp, gợi lên sự bất lực trước quy luật khắc nghiệt của thời gian. Hình ảnh “mây bay về xa” như dự báo ngày mẹ sẽ rời xa. Bài thơ đã khơi dậy trong em tình yêu thương và lòng biết ơn vô hạn dành cho mẹ.
Đoạn văn mẫu số 2
Một trong những tác phẩm xuất sắc viết về người mẹ là bài thơ “Mẹ” của Đỗ Trung Lai. Bài thơ là lời tâm tình của người con dành cho mẹ, thể hiện qua những hình ảnh giàu sức gợi. Tác giả khéo léo sử dụng hình ảnh cây cau - biểu tượng gần gũi, để diễn tả nỗi xót xa khi mẹ ngày càng già đi. Những câu thơ đối lập như “Lưng mẹ còng rồi - Cau thì vẫn thẳng”, “Cau - ngọn xanh rờn, Mẹ - đầu bạc trắng” đã khắc họa sự tương phản giữa sự trường tồn của thiên nhiên và sự già nua của con người. Biện pháp so sánh “Một miếng cau khô – Khô gầy như mẹ” càng làm nổi bật sự héo hon, tàn phai của mẹ theo thời gian. Trước hiện thực ấy, người con không khỏi đau lòng: “Con nâng trên tay/Không cầm được lệ”. Câu hỏi tu từ “Ngẩng đầu hỏi giờ/Sao mẹ ta già?” như một tiếng than không lời đáp, thể hiện sự bất lực trước quy luật khắc nghiệt của thời gian. Hình ảnh “mây bay về xa” gợi lên sự xa cách, như mái tóc mẹ bạc trắng hòa vào mây trời. Bài thơ không chỉ khơi dậy tình yêu thương mà còn nhắc nhở chúng ta hãy trân trọng từng khoảnh khắc bên mẹ, yêu thương và biết ơn mẹ nhiều hơn.
Đoạn văn mẫu số 3
Bài thơ “Mẹ” của Đỗ Trung Lai đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Tác phẩm là lời tâm tình chân thành của người con dành cho mẹ. Hình ảnh mẹ được đặt trong sự tương phản với cây cau: “Lưng mẹ còng rồi/Cau thì vẫn thẳng”. Sự đối lập này khiến người con càng thêm xót xa khi nhìn mẹ già đi theo thời gian. Cây cau ngày càng cao lớn, còn mẹ thì “ngày một thấp”. Tuổi tác đã in hằn lên dáng hình mẹ, từ những miếng cau bổ tư ngày xưa giờ đã thành tám miếng nhỏ, mà “Mẹ còn ngại to!”. Hình ảnh “Một miếng cau khô/Khô gầy như mẹ” khiến người con không khỏi đau lòng. Đôi tay run rẩy nâng miếng cau, nhưng cuối cùng, con “không cầm được lệ”. Câu hỏi tu từ “Sao mẹ ta già?” như một tiếng than đầy bất lực, không thể níu kéo thời gian để mẹ mãi ở bên. Thể thơ bốn chữ ngắn gọn, cùng những hình ảnh đối lập và biện pháp so sánh, đã khắc họa chân thực hình ảnh mẹ. Bài thơ không chỉ khơi dậy tình yêu thương mà còn nhắc nhở chúng ta hãy trân trọng từng khoảnh khắc bên mẹ.
Đoạn văn bộc lộ cảm xúc sâu sắc sau khi đọc bài thơ Ông đồ
Đoạn văn mẫu số 1
Bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên là một tác phẩm đầy hàm súc, thể hiện nỗi tiếc nuối của tác giả về một thời kỳ văn hóa rực rỡ đã qua. Hai khổ thơ đầu tái hiện không khí ngày Tết xưa, khi ông đồ còn được trọng vọng. Hoa đào khoe sắc, phố phường nhộn nhịp, và ông đồ xuất hiện bên hè phố, bán những câu đối đỏ như một nét văn hóa không thể thiếu mỗi dịp Tết đến. Những nét chữ “phượng múa rồng bay” không chỉ là tài hoa mà còn chứa đựng cả tâm hồn người viết. Thế nhưng, thời gian trôi qua, phong tục treo câu đối dần bị lãng quên. Từ “nhưng” như một nốt trầm, báo hiệu sự thay đổi. Người tri âm xưa giờ chỉ còn là khách qua đường. Niềm vui nhỏ nhoi của ông đồ là được mang nét chữ của mình làm đẹp cho đời, nay cũng tan biến. Nỗi buồn của ông đồ khiến cả những vật vô tri như giấy đỏ, bút nghiên cũng thấm thía nỗi xót xa. Hình ảnh ông đồ ngồi lặng lẽ giữa phố, lá vàng rơi trên trang giấy nhạt phai, như một dấu chấm hết cho sự sinh sôi. Mưa bụi bay nhạt nhòa, như khóc thương cho một thời đại đang dần trôi vào quá khứ. Qua bài thơ, ta cảm nhận được tâm trạng của thi nhân, một nỗi xót thương, hoài cổ cho một thời đã qua. Câu hỏi cuối bài “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?” như lời tự vấn đầy ngậm ngùi, gửi gắm nỗi niềm về sự mai một của truyền thống văn hóa dân tộc. Bài thơ không chỉ chạm đến trái tim người đọc mà còn để lại những suy ngẫm sâu sắc về giá trị văn hóa và thời gian.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên đã để lại trong lòng người đọc nhiều suy tư sâu sắc. Hình ảnh ông đồ, một biểu tượng quen thuộc của xã hội xưa, hiện lên với sự tài hoa và trí tuệ. Mỗi dịp Tết đến, ông đồ lại xuất hiện bên phố đông người, bày mực tàu, giấy đỏ, viết những câu đối đầy nghệ thuật: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng múa rồng bay”. Những nét chữ uyển chuyển, tinh tế khiến người xem không khỏi trầm trồ, ngưỡng mộ. Thế nhưng, thời gian trôi qua, xã hội đổi thay, ông đồ vẫn ngồi đó, nhưng chẳng mấy ai còn để ý. Những vật dụng quen thuộc như “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” được nhân hóa, gợi lên nỗi buồn của người nghệ sĩ khi bị lãng quên. Câu hỏi tu từ cuối bài “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?” như một lời than thở đầy xót xa, phản ánh sự mai một của những giá trị truyền thống. Bài thơ không chỉ là nỗi niềm của ông đồ mà còn là tiếng lòng của tác giả, khiến em cảm thấy vô cùng yêu thích và trân trọng.
Đoạn văn mẫu số 3
Bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên đã để lại trong em những ấn tượng sâu sắc. Tác giả đã khắc họa hình ảnh ông đồ từ quá khứ đến hiện tại một cách tinh tế. Trong quá khứ, ông đồ xuất hiện trên phố với hoa đào rực rỡ, mực tàu, giấy đỏ, và những nét chữ thư pháp điêu luyện: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng múa rồng bay”. Những nét chữ uyển chuyển, tinh tế khiến người xem không khỏi trầm trồ, ngưỡng mộ. Đó là thời kỳ vàng son khi ông đồ được trân trọng và yêu mến. Thế nhưng, thời gian trôi qua, sự quan tâm của mọi người dần phai nhạt. Hình ảnh nhân hóa “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi lên nỗi buồn của người nghệ sĩ khi bị lãng quên. Năm nay, hoa đào lại nở, nhưng ông đồ đã không còn xuất hiện. Câu hỏi tu từ cuối bài “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?” như một lời than thở đầy xót xa, phản ánh sự mai một của những giá trị truyền thống. Bài thơ không chỉ thể hiện tình cảnh đáng thương của ông đồ mà còn toát lên niềm cảm thương sâu sắc của tác giả trước một lớp người đang dần tàn lụi, cùng nỗi tiếc nhớ khôn nguôi về một thời đã qua.
Đoạn văn bộc lộ cảm xúc sâu sắc sau khi đọc bài thơ Tiếng gà trưa
Đoạn văn mẫu số 1
Bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh là một tác phẩm đầy cảm xúc, khơi gợi những kỉ niệm tuổi thơ và tình cảm bà cháu thiêng liêng. Tiếng gà trưa, một âm thanh quen thuộc của làng quê Việt Nam, đã trở thành cầu nối đưa người cháu trở về với những kí ức đẹp đẽ. Trên đường hành quân, người cháu dừng chân nghỉ ngơi tại một xóm nhỏ. Tiếng gà vang lên như tiếng gọi của quê hương, đánh thức những kỉ niệm ấm áp bên bà. Cháu nhớ lại những ngày thơ ấu, khi tò mò xem bà đẻ trứng rồi bị bà mắng. Lòng cháu ngây thơ tin lời bà, sợ mặt bị lang, vội vàng lấy gương soi. Hình ảnh người bà hiền hậu, tần tảo hiện lên rõ nét. Bà chăm sóc đàn gà, hi sinh mệt nhọc để cuối năm bán đi, mua quần áo mới cho cháu. Tuổi thơ tuy nghèo khó nhưng tràn đầy hạnh phúc, để lại trong lòng cháu những kí ức không thể phai mờ. Tiếng gà trưa không chỉ là âm thanh bình thường mà còn là tiếng gọi của quê hương, của tình yêu thương và ước mơ. Khổ thơ cuối, với điệp từ “vì” được lặp lại bốn lần, khẳng định mục đích chiến đấu cao cả của người chiến sĩ. Cháu chiến đấu vì bà, vì quê hương, vì những kỉ niệm đẹp đẽ và tình yêu thương vô bờ bến dành cho bà. Mạch cảm xúc của bài thơ diễn ra tự nhiên, từ tiếng gà trưa gợi nhớ về bà, đến tình yêu thương và lý tưởng chiến đấu. Tình cảm bà cháu trong bài thơ chân thành, sâu sắc, khiến người đọc xúc động.
Đoạn văn mẫu số 2
Xuân Quỳnh đã để lại nhiều tác phẩm xuất sắc, trong đó bài thơ “Tiếng gà trưa” đã khắc sâu vào tâm trí tôi những ấn tượng khó phai. Khi đọc bài thơ, người đọc như được trở về với những kí ức tuổi thơ đẹp đẽ. Nhân vật trữ tình trong bài là một người chiến sĩ xa nhà, trên đường hành quân, anh dừng chân bên một xóm nhỏ. Tiếng gà trưa vang lên: “Cục... cục tác... cục ta” đã đánh thức những kỉ niệm tuổi thơ của anh. Hình ảnh những ổ rơm hồng đầy trứng, con gà mái mơ, gà mái vàng trở nên quen thuộc và gần gũi với bất kỳ đứa trẻ nào sống ở thôn quê. Đặc biệt, kỉ niệm về lần xem trộm gà đẻ trứng và bị bà mắng khiến tôi cảm nhận rõ hơn tình yêu thương và sự quan tâm của bà dành cho cháu. Tiếng gà trưa không chỉ gợi nhớ về tuổi thơ mà còn khắc họa hình ảnh người bà tần tảo, giàu đức hi sinh. Những câu thơ của Xuân Quỳnh khiến người đọc xúc động nghẹn ngào. Bà luôn lo lắng trời làm sương muối, mong mưa thuận gió hòa để đàn gà khỏe mạnh. Cuối năm, bà bán gà để mua quần áo mới cho cháu đón Tết. Với người cháu, hạnh phúc nằm ở những điều giản dị nhất. Ở khổ thơ cuối, người cháu khẳng định mục đích chiến đấu của mình: vì bà, vì quê hương, vì những kỉ niệm đẹp đẽ và tình yêu thương vô bờ bến dành cho bà. Tiếng gọi “Bà ơi” vang lên trìu mến, yêu thương, thể hiện mong muốn đem lại cuộc sống hòa bình cho bà. Bài thơ với ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gần gũi, đã khắc họa tình bà cháu thật đẹp đẽ và sâu sắc.
Đoạn văn mẫu số 3
Bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh đã khơi gợi những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ và tình cảm bà cháu sâu sắc. Nhân vật trữ tình trong bài là một người chiến sĩ xa nhà, trên đường hành quân, anh dừng chân bên xóm nhỏ và nghe tiếng gà trưa vang lên. Âm thanh ấy đã đánh thức những kí ức tuổi thơ của anh. Anh nhớ về những ổ rơm hồng đầy trứng, hình ảnh gà mái mơ, gà mái vàng với những màu sắc rực rỡ. Đặc biệt, kỉ niệm về lần xem trộm gà đẻ trứng và bị bà mắng khiến tôi cảm nhận rõ hơn tình yêu thương và sự quan tâm của bà dành cho cháu. Tiếng gà trưa không chỉ gợi nhớ về tuổi thơ mà còn khắc họa hình ảnh người bà tần tảo, giàu đức hi sinh. Bà luôn lo lắng trời làm sương muối, mong mưa thuận gió hòa để đàn gà khỏe mạnh. Cuối năm, bà bán gà để mua quần áo mới cho cháu đón Tết. Với người cháu, hạnh phúc nằm ở những điều giản dị nhất. Khi trưởng thành, cháu tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc, vì lòng yêu nước, vì quê hương, và hơn hết là vì bà. Tiếng gọi “Bà ơi” vang lên trìu mến, yêu thương, thể hiện mong muốn đem lại cuộc sống hòa bình cho bà. Bài thơ với ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gần gũi, đã khắc họa tình bà cháu thật đẹp đẽ và sâu sắc. Qua đó, chúng ta cũng hiểu hơn về vẻ đẹp của người chiến sĩ trong chiến tranh.
- Soạn bài Buổi học cuối cùng - Ngữ văn lớp 7 trang 21 sách Cánh Diều tập 1: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Soạn bài Thảo luận nhóm về một vấn đề - Ngữ văn lớp 7 trang 96 sách Cánh diều tập 1: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Hướng dẫn Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 90 - Sách Cánh diều 7, Ngữ văn lớp 7, Tập 1
- Bài văn biểu cảm về người thân yêu - Tuyển tập 20 mẫu văn lớp 7 đặc sắc
- Hướng dẫn Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 108 - Sách Cánh diều 7, Ngữ văn lớp 7, Tập 1