Bài văn mẫu lớp 8: Cảm nhận và phân tích sâu sắc bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của nhà thơ Phan Bội Châu

Tài liệu này mang tính ứng dụng cao, hỗ trợ học sinh lớp 8 trong việc mở rộng nguồn tham khảo, khơi nguồn cảm hứng và phát triển ý tưởng độc đáo cho bài viết. Mời quý thầy cô và các em học sinh cùng khám phá.
Phân tích bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác - Mẫu 01
Đầu thế kỷ XX, khi các phong trào khởi nghĩa chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp trên cả ba miền đất nước lần lượt thất bại, một bầu không khí u uất và đau thương bao trùm lên đất nước. Trong văn học, bên cạnh những bản hùng ca đầy khí thế, cũng xuất hiện những tiếng thở dài đầy bi phẫn và bất lực.
Phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi khởi xướng đã bị dập tắt. Vị vua yêu nước bị thực dân Pháp bắt đi đày trên một hòn đảo xa xôi giữa biển khơi, cách biệt hoàn toàn với quê hương. Tuy nhiên, ngọn lửa căm thù và khát vọng phục quốc vẫn âm ỉ cháy trong lòng mọi tầng lớp nhân dân. Đầu thế kỷ XX, làn gió mới của tư tưởng dân chủ tư sản từ châu Âu và Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào đã thổi bùng lên tinh thần đấu tranh của những người yêu nước. Họ hướng tới một cuộc cách mạng mới, vừa đánh đuổi kẻ thù xâm lược, vừa lật đổ giai cấp phong kiến phản bội. Mục tiêu của họ là khai sáng dân trí, phát triển công thương nghiệp, đưa đất nước tiến lên văn minh, giàu mạnh. Dù phương pháp có khác nhau (bạo động hay ôn hòa), nhưng tất cả đều chung một mục đích cao cả: giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Các khuynh hướng này không đối lập mà hòa quyện thành một làn sóng cách mạng mạnh mẽ. Dù thực dân Pháp đàn áp dã man, phong trào tạm lắng, nhiều nhà lãnh đạo phải vào tù hoặc lưu vong.
Những chí sĩ cách mạng tiêu biểu đầu thế kỷ XX như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đều là nhà Nho nhưng đã tiếp thu nhanh chóng tư tưởng tiến bộ của thời đại. Trong ngục tù của thực dân, họ thường làm thơ để bày tỏ chí khí. Những vần thơ ấy chính là tiếng lòng đầy tâm huyết của những người anh hùng cứu nước, có sức lay động lòng người.
Năm 1912, thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Khi bị quân phiệt Quảng Đông bắt giam và biết chúng định giao nộp mình cho Pháp, cụ Phan Bội Châu đã nghĩ rằng mình khó thoát chết. Vì vậy, đầu năm 1914, ngay khi bị giam, cụ đã viết Ngục trung thư để ghi lại tâm nguyện gửi đến đồng bào. Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác được cụ viết để tự an ủi mình. Cụ kể rằng sau khi làm xong, cụ đã “ngâm nga lớn tiếng rồi cười vang, khiến cả nhà giam chấn động, như quên mình đang bị giam cầm”. Nội dung bài thơ như sau:
Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.
Bài thơ mang đậm khí phách anh hùng, khắc họa rõ nét hình ảnh hiên ngang, bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh ngộ éo le.
Thể thơ thất ngôn bát cú với bốn phần: đề, thực, luận, kết, mỗi phần chỉ gói gọn trong hai câu nhưng chứa đựng nội dung sâu sắc và hàm súc.
Hai câu đề:
Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Một tù nhân nhưng vẫn tự nhận mình là bậc hào kiệt, phong lưu, điều này thể hiện phong thái đĩnh đạc, tự tin, vừa ung dung, thanh thản, vừa hiên ngang bất khuất, lại vừa tài hoa. Người chiến sĩ cách mạng không may rơi vào vòng lao lý thì coi như người đi đường dài mỏi chân nghỉ ngơi để lấy sức tiếp tục hành trình. Thực tế không đơn giản như vậy. Cụ Phan kể rằng trên đường bị áp giải đến nhà tù, bọn lính đã đối xử với cụ rất tàn bạo: trói tay, xiềng chân. Vào ngục, cụ lại bị giam chung với bọn tử tù. Một ngày trong tù, nghìn thu ở ngoài. Đúng là như vậy! Bị giam cầm đồng nghĩa với việc bị tước đoạt tự do, bị hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần và đối mặt với cái chết. Thế mà người anh hùng vẫn ngẩng cao đầu và cảm thấy mình hoàn toàn tự do về tinh thần. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn ấy, khi bàn đến sự sống chết, Phan Bội Châu vẫn nói bằng giọng điệu đùa cợt. Đây là lối thơ khẩu khí phổ biến trong văn chương, thể hiện chí lớn của người xưa.
Hai câu thực:
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.
Nhà thơ tóm tắt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Mười năm lưu lạc, khi ở Nhật Bản, khi ở Trung Quốc, khi ở Xiêm La (Thái Lan), xa gia đình, chịu đựng trăm ngàn cực khổ về vật chất, cay đắng về tinh thần; thêm vào đó là sự nguy hiểm thường trực vì cụ Phan là đối tượng truy nã đặc biệt của thực dân Pháp và đã bị chúng kết án tử hình vắng mặt. Phan Bội Châu nói như vậy không phải để than thân mà để nêu lên bi kịch chung của các chí sĩ yêu nước thời đó.
Cuộc đời đầy sóng gió của cụ Phan gắn liền với tình cảnh nô lệ của đất nước và đồng bào. Giọng điệu trầm buồn của hai câu thơ phần nào thể hiện tâm trạng đau đớn, xót xa của bậc anh hùng cứu nước.
Hai câu luận:
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Đúng là khẩu khí của bậc đại trượng phu. Dù gặp hoàn cảnh bi đát đến đâu, lý tưởng kinh bang tế thế, lo đời giúp dân của Phan Bội Châu vẫn không thay đổi. Trước sau, cụ vẫn một lòng theo đuổi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của ngoại xâm. Lý tưởng và mục đích cao cả ấy đã giúp cụ giữ vững khí tiết cương cường, tư thế hiên ngang, bất khuất trước kẻ thù.
Lối nói khoa trương này thường xuất hiện trong thơ ca lãng mạn, đặc biệt là trong anh hùng ca. Nó nâng cao tầm vóc và năng lực của con người lên mức siêu nhiên, thần thánh.
Từ thuở thanh niên, Phan Văn San (tên thật của Phan Bội Châu) đã nuôi chí lớn chờ thời cơ cứu nước:
Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một ti con con.
Đạp toang hai cánh càn khôn,
Đem xuân vẽ lại cho non nước nhà…
(Chơi xuân)
Gần như suốt cuộc đời, cụ Phan đã chấp nhận gian khổ, hi sinh để theo đuổi và thực hiện lí tưởng thiêng liệng ấy.
Hai câu kết:
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.
Ý chí gang thép và niềm tin to lớn của người anh hùng quả là không gì lay chuyển nổi. Con người ấy còn sống nghĩa là còn tiếp tục chiến đấu, còn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng, vì thế mà bất chấp mọi thử thách gian nan.
Từ còn lặp lại hai lần liền nhau ở giữa câu thơ vừa có tác dụng ngắt nhịp, vừa nhấn mạnh ý thơ. Hai câu kết như một tuyên ngôn dõng dạc, dứt khoát, có sức truyền cảm mạnh mẽ, lớn lao, lay động hồn người.
Phan Bội Châu được nhân dân tôn vinh là một trong những nhà chí sĩ yêu nước và cách mạng nổi tiếng đầu thế ki XX. Tên tuổi và gương sáng của cụ ảnh hưởng rộng rãi tới phong trào giải phóng dân tộc không chi trong thời kì đó mà mãi mãi về sau.
Người chiến sĩ cách mạng lão thành họ Phan dù trải qua bao giông bão cuộc đời vẫn giữ vững khí tiết của một bậc chính nhân quân tử: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. (Giàu sang không thể làm cho mê đắm, nghèo khó không thể làm cho thay lòng đổi dạ, uy vũ không thể làm cho khuất phục). Tuy xuất thân từ cửa Khổng sân Trình nhưng cụ đã vượt khỏi khuôn khổ cứng nhắc của giáo lí thánh hiền để tiếp cận tư tưởng dân chủ, dân quyền mới. Trước cảnh đồng bào đang chịu cảnh lầm than, nô lệ, cụ đau đớn, xót xa và nuôi khát vọng xoay chuyển càn khôn, đánh đuổi quân thù, đem xuân vẽ lại cho non nước nhà. Với lí tưởng cao đẹp đó, cụ lao vào cuộc đấu tranh, bất chấp mọi gian khổ, hi sinh, thậm chí đối diện với cái chết, cụ cũng không sờn lòng, nản chí. Bởi thế nên đối với cụ, dẫu có sa cơ, rơi vào vòng tù ngục thì chẳng qua cũng chi là dừng bước tạm nghi trên con đường đấu tranh lâu dài và gian khổ.
Ở bài thơ này, các biện pháp nghệ thuật thường thấy trong thơ Đường như nghệ thuật đối: bốn biển – năm châu, bủa tay – mở miệng, bồ kinh tế – cuộc oản thù… được sử dụng hợp lí đã làm cho tầm vóc của nhân vật trữ tình trở nôn lớn lao, kì Vĩ, phù hợp với giọng điệu hào hùng. Cảm xúc chân thành của tác giả đã tạo nên sức sống bất diệt cho bài thơ.
Phân tích bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác - Mẫu 02
Với cảm hứng hào hùng, đậm chất anh hùng ca, bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” của Phan Bội Châu đã để lại trong lòng người đọc nhiều dư âm. Hình tượng người tù hiên ngang, bất khuất, đầy chí khí giữa ngục tù tăm tối được khắc họa một cách sinh động, đáng ngưỡng mộ.
Hình ảnh của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu hiện lên thật hiên ngang, đầy khí phách, không hề run sợ trước ngục tù nhiều bất công, ngang trái. Bài thơ được lấy nhan đề “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” bắt nguồn từ chính hoàn cảnh của người chí sĩ. Đây cũng là dòng cảm xúc chủ đạo làm nên tinh thần tráng ca bất diệt của bài thơ.
Hai câu thơ đầu cất lên như chính tiếng lòng của người chí sĩ, ông xem việc ngồi tù rất bình thường:
Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù
Đấng nam nhi sinh ra trên đời này phải làm việc lớn, phải gánh vác trọng trách của đất nước, vì nhân dân mà phấn đấu và cố gắng hết mình. Phan Bội Châu xem việc ở tù như việc đi mỏi chân thì ngồi nghỉ. Tâm thế rất điềm tĩnh, không hề nao núng và lo sợ. Đây chính là nhân cách và phẩm giá của một anh hùng trong thiên hạ. Người chiến sĩ vẫn tự nhận thấy mình vẫn «hào kiệt» và «phong lưu», vẫn có thể dời non lấp biển, có thể đi khắp năm châu nên chỉ một phút sa cơ như thế này sẽ không bao giờ làm giảm chí lớn. Ở tù không phải là việc gì đó lớn lao, không cần phải bận tâm quá nhiều, coi như sa cơ lỡ bước một lúc, coi như đây là thời gian để nghỉ ngơi, để có thể bàn mưu tính kế lớn sau này. Hai câu thơ hoàn toàn đối lập nhau nhưng lại hỗ trợ nhau làm nổi bật hình ảnh người chí sĩ yêu nước có tâm thế vững vàng.
Hai câu tiếp theo, Phan Bội Châu nhìn lại cuộc đời mình ở hiện tại và ở quá khứ với một tư thế bình tĩnh:
Đã khách không nhà trong bốn biển
Lại người có tội giữa năm châu
Mặc dù ở tù nhưng người chí sĩ vẫn luôn hướng về đất nước đang chịu cảnh nô lệ, lầm than. Ông ngẫm cảnh đời mình phiêu bạt năm châu bốn biển và ngẫm cảnh đất nước chìm trong máu và nước mắt. Giữa đất trời rộng lớn, chẳng có một nơi nào gọi là nhà, chẳng có một nơi nào mà người chí sĩ có thể nghỉ một giây, một lát. Sự cô đơn, lạc lõng trong con đường cứu nước cứu dân. Bế tắc rơi vào bế tắc khi thân mang trọng tội. Hai từ «đã» và «lại» được đặt ở đầu câu đã như nhấn mạnh và cứa sâu hơn nữa nỗi lòng của người chí sĩ. Đã nước mất nhà tan lại còn mang tội trong người. Sự xót xa, niềm nhớ thương về đất nước cứ cuộn cuộn chảy trong trái tim của người anh hùng.
Tiếp nối giọng điệu trầm lắng, da diết ở hai câu thơ trên, mạch cảm xúc bỗng nhiên chuyển đổi đột ngột ở hai câu tiếp theo:
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù
Hai câu thơ cất lên từ chính trái tim của Phan Bội Châu chính là lý tưởng, là lẽ sống, là con đường mà ông đã lựa chọn để cứu dân cứu nước. Tác giả dùng từ «bủa tay» khẳng định chắc nịch và mạnh mẽ lý tưởng ấy. Ông muốn ôm lấy dân lấy nước, muốn có thể dùng chút sức lực của mình để mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Trong nhân gian, thế sự đổi thay, kẻ thù đã gây nên bao nỗi đau mất mát và chính cuộc đời Phan Bội Châu cũng phải chứng kiến nhiều đau thương nhưng ông vẫn luôn lạc quan và kiên cường. Đây chính là tinh thần đáng ngưỡng mộ, đáng học hỏi của Phan Bội Châu.
Dù phải đối mặt với nhiều mất mát và thử thách, nhưng ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ yêu nước vẫn mãi vang vọng cùng non sông, đất nước. Hai câu thơ cuối đã khắc họa rõ nét hoài bão lớn lao của ông:
Thân này còn sống, còn lo việc nước
Bao nhiêu nguy hiểm cũng chẳng sờn lòng
Câu thơ như một lời thề sắt đá, một tuyên ngôn từ một người đang chịu cảnh tù đày tăm tối. Nhưng dường như chốn lao tù ấy không thể khuất phục được một tâm hồn, một trái tim trung kiên với Tổ quốc. Ông khẳng định rằng, chỉ cần còn sống, sự nghiệp cứu nước sẽ không bao giờ dừng lại. Ông sẽ dành trọn sức lực để hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng đó. Những hiểm nguy, gian khó đối với Phan Bội Châu chỉ là chuyện nhỏ. Tinh thần bất khuất, kiên cường, không sợ hiểm nguy của ông khiến người đọc không khỏi ngưỡng mộ trước một tấm lòng cao cả.
Bài thơ «Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác» đã khắc họa hình ảnh Phan Bội Châu - một con người kiên cường, bất khuất, khiến người đọc phải kính phục. Sự hòa bình mà đất nước ta có được ngày hôm nay chính là nhờ công lao to lớn của những con người như ông.
.............
Mời các bạn tải file tài liệu để khám phá thêm nội dung chi tiết
- Soạn bài Ôn tập trang 53 - Chân trời sáng tạo 7: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 7, sách Chân trời sáng tạo tập 1
- Luyện từ và câu: Hướng dẫn quy tắc viết tên riêng cơ quan, tổ chức - Bài 18 Tiếng Việt lớp 4 Cánh diều Tập 2
- Viết bài văn kể lại câu chuyện về một nhân vật lịch sử mà em đã đọc và nghe, khám phá những sự kiện quan trọng trong cuộc đời họ và ảnh hưởng sâu sắc đến lịch sử dân tộc.
- Soạn bài Hịch tướng sĩ - Ngữ văn lớp 10 trang 92 sách Chân trời sáng tạo tập 2: Hướng dẫn chi tiết và sáng tạo
- Tả con vật mà em yêu thích: Dàn ý chi tiết và 27 bài văn mẫu lớp 5 hay nhất là bộ tài liệu hữu ích dành cho các em học sinh lớp 5, giúp các em hoàn thiện kỹ năng miêu tả con vật yêu thích một cách sinh động và đầy cảm xúc. Từ việc xây dựng dàn ý cho đến việc triển khai các ý tưởng trong từng đoạn văn, tài liệu này cung cấp cho các em những gợi ý rõ ràng và chi tiết. Các bài văn mẫu trong bộ sưu tập này không chỉ phong phú về nội dung mà còn thể hiện sự sáng tạo, giúp các em thể hiện tình yêu đối với các loài động vật qua từng câu chữ, từ đó nâng cao khả năng viết văn của mình.